Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

GHẾ HƯƠNG- HƯƠNG KỈ là gì?

76.

AC: Hương kỷ [香几] là ghế hương (tr. 369/38a). Thực ra thì “Hương kỷ là kỷ hương.” Kỷ là một thứ khay nhỏ, có mặt đáy phẳng và có thành thấp, thường thấy nhất là trong danh ngữ kỷ trà (còn ở đây là kỷ hương).

TTD: Đúng là “kỷ” là một loại khay nhỏ, đáy phẳng, như kỷ trà- kỷ chè.
Nhưng “kỷ hương” thì vẫn là “ghế hương” vì nó là một loại GHẾ.
Ghế hương có mặt hình vuông, tròn hoặc lục giác, có chân tương đối cao, các chân đều uốn cong một độ vừa phải và duyên dáng. Chức năng của ghế hương là dùng để đặt lò hương, đỉnh trầm.
Hán ngữ đại từ điển (1994 Q12: 23) ghi: “Hương kỷ: là loại kỉ án để đặt lò hương. Vương Tích đời Minh trong sách “Tam tài đồ hội” phần Khí dụng mục Hương kỷ ghi rằng ‘Lý Vưu đời Hán trong bài Kỷ minh có viết: Hoàng Đế và Hiên Viên chế tác thành. Như thế Kỉ / Ghế có từ đời Hoàng đế, đến nay đã cổ…… Nay gọi là yến kỷ 燕几, hay đài 檯, hay thư trác 書卓, hay thiên thiền kỷ 天禪几, hay hương kỷ 香几, vắn dài to nhỏ khác nhau’.”
Năm 1591, Cao Liêm trong tác phẩm “Tuân sinh bát tiên” phần "Yên nhàn thanh thưởng tiên" có ghi: “hình chế của hương kỷ trong phòng sách thì có hai loại: loại cao 1 thước tám tấc, mặt ghế hoặc ốp đá Đại Lý, hoặc các loại Kỳ Dương, Mã Não, hoặc tương ở giữa bằng đậu bá nam; có khi thì mặt tứ giác, bát giác, có khi lại vuông, có khi thì là hình hoa mai, hoa quỳ, hoa ráy, hoặc dạng hình tròn, có khi sơn có khi đánh bóng. Các loại ghế này dùng để đặt các bể non bộ, các chậu thưởng lãm dị thạch, hoặt đặt mâm bưởi, hoặc đặt lọ hoa để cắm nhiều hoa, hoặc đặt riêng một lò hương. Loại này đều là ghế cao.”
Ghế hương, thời Nguyễn. Nguồn: ảnh thời Pháp.

Toàn văn bài thảo luận xem link:
https://www.dropbox.com/s/90mas7yoyeeh89x/th%C6%B0%20c%E1%BA%A3m%20%C6%A1n%20b%C3%A1c%20An%20Chi-%20TTD.pdf?dl=0

Thứ Bảy, 3 tháng 3, 2018

Từ nguyên của thịt SẤN- thịt THĂN?

38.
AC: Môi nhục [脢肉] là SƯỜN (tr.334/27b). Nhà hiệu khảo đã ghi tại cước chú 4: “Chữ Nôm [月+辰], có lẽ là nhầm từ [月+長]. Vì môi nghĩa là LƯỜN.” Thực ra thì chẳng có nhầm lẫn gì ở đây. Chữ [辰] được viết tắt từ chữ chấn [振], đọc Nôm thành SẤN. Vậy câu này phải đọc thành “Môi nhục là sấn.” Sấn là “phần thịt có nạc nằm trên mỡ phần ở lưng, mông và vai lợn” (Từ điển tiếng Việt của Vietlex). Đây hiển nhiên là phần thịt lườn, vì môi nghĩa là lườn, như đã ghi ở cước chú 4.

TTD: Chúng tôi đồng ý với tự dạng [月+辰], và không hoàn toàn đồng ý với cách hiểu “môi nghĩa là lườn /hay thịt sườn” (về mặt từ nguyên).
Chúng tôi lại KHÔNG đồng ý với cách định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Vietlex và Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý 2008). Sấn không phải là “phần thịt có nạc nằm trên mỡ (sic) phần ở lưng, mông và vai lợn (sic)” mà chỉ là phần thịt nạc dọc hai bên xương sống, đây mới là nghĩa chính xác của môi [脢]. Cách nói “mông sấn” trong khẩu ngữ hàng ngày chỉ là một cách gọi gộp, chứ thịt sấn khác với thịt mông và thịt vai.

Thêm nữa, “sấn” còn có một điệp thức nữa là “thăn” (thịt thăn), mà nguyên từ của nó là [胂] với âm Hán Việt là “sân”, và âm tiếng Trung hiện tại là shen. Quảng vận ghi âm cắt “Sửu nhÂN thiết” (丑人切). Sách Bác nhã ghi: (肑謂之胂,胂謂之脢). Sách Tập vận ghi chữ này như sau “… Lại có {âm đọc} NGoại nhÂN thiết, âm THÂN” (…又外人切,音申。).
Thế kỷ 17, Rhodes (1651/1994: 215) ghi: “THĂN: lưng. Thăn thịt lợn: thịt lưng lợn.” Như vậy, vị trí cả câu này nên đọc là “Môi nhục [脢肉] là sấn/ thăn” (tr. 334/27b).
Tuy nhiên, ngày nay, thịt thăn được hiểu rộng hơn nghĩa gốc, gồm cả 2 thớ thịt dọc theo xương sống (tức nạc thăn, Tenderloin), và 2 tảng của sườn/ lườn (còn gọi thịt cốt-lết, Cotlete de porc).
Bản 2016 chúng tôi phiên "lườn" là không đúng do bị nhiễm từ tiếng Việt hiện đại.
Nay theo đề xuất của An Chi phiên là "sấn", và bổ sung thêm cách phiên "thăn" và nguyên từ [胂].


Toàn văn bài thảo luận xem link:
https://www.dropbox.com/s/90mas7yoyeeh89x/th%C6%B0%20c%E1%BA%A3m%20%C6%A1n%20b%C3%A1c%20An%20Chi-%20TTD.pdf?dl=0

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2018

Nhà MUỐNG là nhà gì?


24.
AC: Phụ hạ [負厦] là nhà MUỐNG tiếp mái thềm (tr.322/22b). Phiên thành “nhà muống” thì vô nghĩa. Nôm ghi bằng chữ [臱], âm Hán Việt là biên nên phải đọc thành BÊN. Và “phụ hạ” là nhà bên chứ làm gì có “nhà muống” (!)

TTD: Chúng tôi xin bảo lưu cách phiên “nhà muống”. Chữ Nôm ghi ngữ tố này không phải là biên [臱] mà là mộng [夢]. «Đại Nam quốc ngữ» cũng có mục từ tương tự, nhưng bị phiên thành «Phụ hạ: nhà MỎNG tiếp mái thềm» (Lã Minh Hằng 2013 : 129). “Nhà muống” là một thuật ngữ của kiến trúc cổ truyền, miền bắc thường gọi là ống muống, hay tòa nhà cầu, gian nhà cầu. Còn theo kinh nghiệm điền dã của chúng tôi, ống muống là một loại kiến trúc phụ (dạng mái) dùng để nối các tòa trong một tổng thể kiến trúc liên hoàn.
Có hai loại ống muống :
1/ mái ống muống song song cùng chiều với các mái nhà chính, nhìn trên cao xuống, trông như hình chữ tam, ví như ống muống ở đình Chèm. Ống muống kiểu này có khi không có chân cột mà các thanh xà của nó ăn vào các cột cái cột quân của hai kiến trúc chính. Ống muống sẽ che mưa nắng, giúp cho việc đi lại liên thông và có không gian để thắp hương, hành lễ, nên Phạm Đình Hổ mới giảng là «tiếp mái thềm».

2/ Ống muống bắc dọc, vuông góc với các mái kiến trúc chính. Theo Paulus Của (1895: 730), “Nhà cầu: nhà dài nhỏ cắt nối theo nhà lớn”. Ví dụ, nếu một di tích có ba gian song song với nhau theo hình chữ tam [三] thì sẽ có 2 ống muống nối liền 3 tòa nhà này, để tạo thành chữ vương [王], trong một tổng thể kiến trúc «nội vương ngoại vi». (Nguyễn Văn Cương 2006: 108).

Từ “nhà muống” hay “ống muống” này không thấy ghi trong từ điển Paulus Của cũng như trong các từ điển tiếng Việt hiện đại, nhưng vẫn thường xuyên được sử dụng trong các công trình nghiên cứu kiến trúc cổ.

Toàn văn bài thảo luận xem link:
https://www.dropbox.com/s/90mas7yoyeeh89x/th%C6%B0%20c%E1%BA%A3m%20%C6%A1n%20b%C3%A1c%20An%20Chi-%20TTD.pdf?dl=0


Hình: Phụ hạ負厦 nhà MUỐNG tiếp mái thềm, đình Chèm. Ảnh: Trần Trọng Dương (2015: 58)


Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2018

Mỗi chữ là một lần tri ân: thư cảm ơn học giả An Chi


Trần Trọng Dương

*CHÚ Ý: Do giao diện BLOG có giới hạn về trình bày và bài hơi dài (gần 25.000 lượt chữ), nên quý vị có thể download toàn bài của chúng tôi ở đây:
https://www.dropbox.com/s/0ad3v0lrn3ke8mz/c%E1%BA%A3m%20%C6%A1n%20b%C3%A1c%20An%20Chi-%20TTD.docx?dl=0
BLog này chỉ in phần mở bài và kết luận.

Một người làm khảo cứu không dám bao giờ cho rằng mình hiểu chính xác tất cả mà luôn lường trước khả năng mình có thể sai trong bất cứ trường hợp nào, kể cả có những điều mà mình cho là hiển nhiên, hoặc rất cơ bản. Khi thực hiện khảo chú cho “Nhật dụng thường đàm” (NDTĐ), chúng tôi, bằng nhiều cách khác nhau, đã ghi lại các nghi ngờ của mình: hoặc đánh dấu hỏi, hoặc ghi “tồn nghi”, hoặc đưa ra hai ba cách đọc, hoặc gõ máy hoặc cắt nguyên tự dạng Nôm tại vị trí đặc dị còn nghi ngờ, hoặc đặt dấu sổ chéo (/), … Cả trăm trường hợp như thế đã được ghi chú ở cả chính văn và chú thích chân trang để chờ đợi các bậc thức giả góp ý.
Khi nhận đọc bài viết phê bình của học giả An Chi- người mà tôi rất kính trọng, chúng tôi thực sự thích thú như mọi lần đọc các bài viết góp ý của ông. Mỗi chữ là một thảo luận cụ thể, nghiêm túc; có những cái sai rất sơ đẳng, có những nhầm lẫn tác tộ lỗ ngư, có những chữ là “tại thằng đánh máy”- (tức chính là mình), có những chỗ phiên khuyết phiên rớt do quá trình mắt di chuyển từ nguyên bản sang màn hình máy tính, và có những trường hợp hiểm hóc lần đầu tiên gặp trong đời vô cùng thú vị… Mỗi một chữ là một lần tôi muốn gửi đến ông lời tri ân từ tận đáy lòng mình. Những sai sót trong bản phiên chú này, chúng tôi xin tiếp thu và sửa chữa trong lần tái bản sau, xin không nêu ở đây.
Dưới đây chúng tôi xin thảo luận lại 70 trường hợp trong số 135 vị trí mà học giả An Chi đã góp ý, hoặc để làm rõ hơn giả thuyết của ông, hoặc minh trưng thêm giả thuyết cũ của chúng tôi, hoặc đi đến một giả thuyết mới, hoặc để các giả thuyết trò chuyện với nhau.
..................
...........
...........

Trên đây là một số hồi đáp của chúng tôi về bài góp ý của học giả An Chi. Chúng tôi nghĩ rằng, đã làm việc thì có đúng có sai (với hy vọng đúng nhiều hơn, sai ít hơn), mà đã được người lớn chỉ ra chỗ sai thì còn gì vui bằng. Viết lách cũng đã khó, mà khảo cứu văn bản cổ càng không phải dễ. Người làm chữ nghĩa có khi vật vã hàng năm trời với vài vảy chữ mà không giải quyết nổi. Khảo cứu, phiên dịch, chú thích văn bản cổ cả chục ngàn lượt chữ, mạy mọ từng nghĩa từng chữ từng âm từng thanh điệu, giống như việc ta đang đi vào những khu rừng nguyên sơ chưa từng được biết tới, khám phá cũng được một vài, mà cái mình chưa biết thì vô số. Có quá nhiều thứ ta không biết về quá khứ, có những chữ chưa từng gặp trong bất kỳ sách vở từ điển nào, có những nghĩa đã tuyệt tích khỏi đời sống, có những hiện tượng sự vật đã không còn tồn tại, có những cách nói đã phôi phai theo dòng thời gian. Lại có những cạm bẫy khác luôn rình rập, có khi gặp phải ngụy thư, có khi chỉ là đôi ba chi tiết do người đời sau thêm nếm, có khi là sự sai sót của người chép người khắc; có khi lại là sai sót của chính tác giả lúc biên soạn; và cuối cùng là sai sót/ hạn chế của chính người khảo cứu. Thế giới của thư tịch cổ sử dụng tử ngữ- tử văn tự là thế giới “thập diện mai phục” của chữ và nghĩa, của lịch sử và văn hóa, mà người làm khảo cứu luôn sẵn sàng lường ước rằng mình có thể sai ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào.


Đọc những lời phê bình nghiêm khắc của học giả An Chi ở đoạn đầu bài viết, tôi thực sự rất cảm kích, vì mình đã cố gắng hết sức có thể trong khả năng của mình vào thời điểm đó. Nếu nhìn 100 lỗi sai cho 01 cuốn sách thì đó là một con số rất đáng nói. Nếu nhìn 100 lỗi trong 120.000 lượt chữ, thì cuốn sách đã có thể đúng tới 119.900 lượt chữ (tỉ lệ 0.08%). Nếu nhìn 100 chữ sai trong 27.293 lượt chữ của phần phiên âm chính văn Nhật dụng thường đàm, thì cuốn sách cũng có 27.193 lượt chữ có khả năng đúng (tỷ lệ sai 0.5%). Nếu nhìn 100 chữ cho 2449 mục từ, thì có 2314 mục từ đúng (tỉ lệ sai 4.08%). Cái nghề khảo cứu văn bản cổ là một cái nghề lầm lũi, chỉ biết đếm chữ để đánh giá tổng quan công việc. Và nếu bằng cách ấy, để nhìn lại những gì mình đã làm (không chỉ trong cuốn sách này), chúng tôi không tin là chỉ có một trăm lỗi sai mà có thể nhiều hơn thế gấp nhiều lần. Hiện có câu: được ăn cả, ngã về năm. Nên tôi nghĩ, mình hỏng 1-5 mà được 99-95, thì tôi vẫn chọn làm việc hơn là không làm gì cả. Cứ nhìn vào cái được và cái chưa được (thậm chí những sai nhầm) để tiếp tục làm việc với một tinh thần cầu thị, và biết ơn những người đã chỉ ra những sai nhầm của mình. Chỉ có cách ấy mới mong làm được gì đó dù bé nhỏ trong cuộc đời này.

Cuối cùng, một lần nữa, tôi xin gửi lời tri ân đến học giả An Chi với tấm lòng của người hậu học, không chỉ vì những góp ý trong bài viết này, mà còn ở nhiều câu chuyện chữ nghĩa khác nữa.