Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012
CỘT ĐÁ CHÙA DẠM CÓ PHẢI LÀ LINGA?
Bài đã đăng:http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&CategoryID=41&News=5844
Trần Trọng Dương
Cột đá chùa Dạm/ Giạm (tên chữ của chùa là Cảnh Long Đồng Khánh tự, Thần Quang tự, núi Đại Lãm, xã Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh) xây dựng vào thế kỷ XI trước nay vẫn được coi là một trong những hiện vật điêu khắc hoành tráng nhất trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam (cao trên 5 m, nặng 42 tấn). Nhiều người đã coi đây như là báu vật quốc gia, bởi đôi rồng tạc trên thân cột là một tuyệt phẩm của mỹ thuật thời Lý đến nay còn giữ được. Các nhà nghiên cứu cũng đã có những tranh luận khoa học sôi nổi trong nhiều chục năm qua để giải mã ý nghĩa biểu tượng của chiếc cột đá này. Nhiều giả thuyết đã đưa ra với những lý lẽ khác nhau. Song, quan niệm phổ biến nhất của giới nghiên cứu trong suốt thế kỷ XX cho đến nay vẫn là ý kiến coi đây là một chiếc linga (dương vật) mang tinh thần của tín ngưỡng phồn thực của người Việt trong sự giao thoa với văn hóa Champa-Ấn Độ. Bài viết này sẽ lược thuật lại các giả thuyết này, từ đó đưa ra các kiến giải mới về báu vật trên.
Hình 1: Toàn cảnh phế tích cột đá chùa Dạm, chụp tháng 6/2012.
1. Lược thuật chủ thuyết “linga”
Chủ kiến cho rằng cột đá chùa Dạm là một linga được đưa ra sớm nhất là vào năm 1977[1]. Kể từ đó đến nay, trong vòng hơn 30 năm, các nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật cổ Việt Nam đã bày tỏ sự đồng tình và chứng minh cho giả thuyết này. Có thể kể đến tên tuổi hai nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ Chu Quang Trứ và Trần Lâm Biền với một số bài viết từ những năm 1980- 1990 trên các tạp chí chuyên ngành (in lại trong các chuyên luận của hai tác giả), sau đó giả thuyết này ảnh hưởng đến Phan Cẩm Thượng (1997)[2] và một số nhà sử học như Hà Văn Tấn (1996, 2010)[3], Tạ Chí Đại Trường (2006), … Đáng quan ngại hơn cả, quan niệm này đã đi vào giáo trình giảng dạy đại học qua công trình của tác giả Trần Ngọc Thêm (1992- nay).
Như trên đã viết, những người đứng đầu của chủ thuyết này là hai nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ và Trần Lâm Biền. Vì thế, chúng tôi chủ yếu trình bày lại giả thuyết của hai tác giả. Những người ủng hộ nhưng không đưa cứ liệu bổ sung sẽ không thuật lại ở đây.
Pgs Chu Quang Trứ, trong chuyên luận Sáng giá chùa xưa, đã viết: “cột biểu vươn cao giữa các khu đất tròn bè (TTD nhm) đã gợi hình cặp Linga- Yoni với triết lý âm- dương theo tín ngưỡng phồn thực, được hòa vào tư tưởng Phật giáo… Đằng sau cột biểu, cuối cấp nền này có một giếng nước dân địa phương kể vào ngày hội mồng tám tháng chín, bóng cột dài dần và xoay đến giờ thiêng sẽ chạm vào miệng giếng, truyền sinh lực vũ trụ cho cuộc sống vĩnh hằng mà mọi người luôn mong đợi”[4]. Trong một bài viết trước đó ông cũng viết: “mặc dù đã được Phật hóa như vậy, cột đá vẫn còn lưu ảnh các tư tưởng cổ truyền xưa: ở nhiều nơi vẫn nhận đó là hình lanh-ga và kèm theo đó là quan niệm vũ trụ: trời tròn đất vuông, của các cư dân nông nghiệp”[5].
Giả thuyết này đã nhanh chóng nhận được sự đồng thuận của nhiều nhà khoa học, trong đó đáng kể nhất là Pgs Trần Lâm Biền. Ông cho rằng “hiện tượng Phật hóa linga”[6] với các kiểu “Bụt đực, Bụt cái” trong ngôi chùa của người Mường, cũng như các “linga hoàng gia tượng trưng cho uy quyền tuyệt đối của vua” tại Campuchia là những cứ liệu bổ sung quan trọng để “suy cho cùng, cột chùa Giạm là một hình ảnh của linga, một hiện vật cụ thể của sự trở về cội nguồn Đông Nam Á của dân tộc Việt, một minh chứng về ý thức giải Hoa dưới triều Lý (ở mặt tư tưởng). Cột chùa Giạm còn là một linga lớn nhất trên toàn cõi nước Việt Nam hiện nay”[7].
Hình 2: mukhalinga của Thái Lan. Nguồn: internet.
Năm 1996, Trần Ngọc Thêm trong giáo trình của mình đã nhận định “ở chùa Dạm (Hà Bắc) có một cột đá hình sinh thực khí nam có khắc nổi hình cặp rồng đời Lý”[8]. Năm 2006, tiếp thu Trần Ngọc Thêm, Tạ Chí Đại Trường cũng coi đây là một chiếc linga, hơn nữa chiếc linga này còn chạm nổi hình rồng (một biểu tượng cho nhà vua), cho nên ông đã đi đến kết luận rằng cột đá chùa Dạm là một thứ mukhalinga. Nếu như mukhalinga của các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ (như Champa, Phù Nam…) thường là chạm chân dung nhà vua và các anh hùng thì việc chạm khắc hình rồng- biểu tượng quân vương của Nho giáo- lên linga chùa Dạm là một biểu hiện cho sự giao thoa văn hóa Việt - Hán[9]. Ông cũng nhấn mạnh rằng, cái mukhalinga này phải quan trọng đến mức nào thì bà Thái hậu Ỷ Lan mới cho dựng ở chùa Đại Lãm và sau đó vua Lý Nhân Tông đến thăm chùa, mở đại yến và cho xây dựng các tháp Phật.
2. Cột đá chùa Dạm- phế tích và những số liệu
Một thao tác cơ bản của nghiên cứu khảo cổ học và mỹ thuật cổ đó là khảo tả hiện vật. Rất tiếc là những người đưa ra chủ thuyết linga lại chưa từng công bố chính thức một số liệu cụ thể nào. Họ mặc nhận cột đá đó là một hiện vật từ đó tiến hành giải mã ý nghĩa biểu tượng mà không nghĩ đến việc phục chế lại hình ảnh vốn có của nó. Phải đến những ý kiến trái chiều về “thuyết linga” của Ngô Văn Doanh[10] và Nguyễn Hùng Vỹ, các con số mới lần lượt được đưa ra, những phản biện và kết luận mới bắt đầu rõ ràng hơn.
Kết luận đầu tiên về khảo tả hiện vật: các tác giả cho rằng, cột đá chùa Dạm chỉ là một dạng phế tích còn sót lại của công trình kiến trúc thuộc loại một cột vào đời Lý. Ý kiến này trùng khớp với những nhận định của thế hệ Pháp học lão thành là Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Du Chi, Nguyễn Đỗ Cung,… Có hai lý do để xác định như vậy.
Điểm thứ nhất có thể khẳng định cột đá chùa Dạm là một phế tích, ấy là phần chân của cột đã bị tàn khuyết. Các nhà nghiên cứu theo thuyết “linga” dường như cũng không để ý đến phần chân đá này. Điểm được coi là cứ liệu duy nhất ấy là hình dáng “khu đất tròn bè” theo như miêu tả của Chu Quang Trứ.
Tuy nhiên, chúng tôi xin được khảo tả lại như sau. Phần chân đế còn lại của cột đá chùa Dạm là ba tầng đá xếp cao gần 1m, đường kính 4,5m. Các tầng đá này được tạo thành từ các khối đá lớn tạc hình sóng nước xen kẽ với đồ hình núi non. Đối chiếu với phần chân đá xếp tương tự của bia Lý đối xứng qua trục thần đạo của di tích, cho thấy chỗ nhiều nhất còn lại khoảng 6 tầng. Theo tính toán của Nguyễn Hùng Vỹ, cả hai chân nền này ban đầu sẽ có bảy tầng đá xếp[11]. Riêng phần chân ở cột đá chùa Dạm, bảy tầng sóng nước- núi non bằng đá sẽ xếp kín đến hết phần bạt vuông của thân cột (đây cũng là chi tiết bị nhiều người bỏ qua). Phần vuông của cột có tiết diện 1,55m x 1,65m, tạc thô tháp, điều này cho phép khẳng định phải có phần đá điêu khắc bọc bên ngoài. Theo ý kiến của chúng tôi, các tầng đá này có hai chức năng. Về mặt mỹ thuật, bảy tầng sóng nước- núi non sẽ “ăn ý” với đồ hình song long hiến châu ở trên. Về mặt kiến trúc, bảy tầng sóng nước này sẽ là kết cấu dùng để chèn kè không những chân cột mà còn cả thân cột nữa. Bảy tầng đá bao quanh một trụ đá ở giữa đó là một hằng số/ đặc trưng kiến trúc thời Lý giống như miêu tả của bia Đại Việt quốc Lí gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (1121): Trong dựng một cột, ngoài đặt bảy tầng. Rồng uốn cong đỡ lấy tòa sen vàng, (中標一幹,外設七層。虯弓出而捧金蓮…).
Hình 3: Các lỗ ngàm (số 4, 5, 6) và rãnh dầm trên đỉnh, chụp tháng 6/2012.
Thứ hai, đỉnh cột tuy bị vỡ, nhưng bằng mắt thường, có thể thấy hệ thống các lỗ ngàm để đóng xích đông chịu lực cho một tòa sen và điện Phật trên đó giống như Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu. Theo bố trí 6 lỗ ngàm hình tam giác (cạnh đáy đều nằm trên một mặt phẳng song song với mặt đất), cột đá chùa Dạm được chia đều thành sáu cung bằng nhau tạo thành một dàn dầm chống cân đối. Các lỗ có sự nông sâu khác nhau là do tình trạng bào mòn, thậm trí sứt vỡ của cột phế tích. Chúng tôi tạm thời quy chuẩn đều (làm tròn theo các số liệu lớn nhất của Nguyễn Hùng Vỹ) để hình dung về các lỗ ngàm này (xem bảng dưới). Ngoài ra, đỉnh cột còn có: (a). 8 lỗ nhỏ hình chữ nhật có kích thước 5cm x 6cm x 8cm, sự phân bố không thật đều đặn, khiến tác giả đi đến giả thuyết rằng, đây là các lỗ ngàm được làm về sau trong quá trình tu bổ, người ta đã làm thêm để chống các phía bị nghiêng lệch, hoặc dùng để cắm cờ phướn (b). Lỗ ngàm con sơn hình chữ nhật, rộng 10cm, sâu 4cm. (c). Rãnh dầm ngang chịu lực, nằm chính giữa và chia đôi đỉnh cột, vuông góc với mặt đất, hướng Bắc Nam rộng 23cm, dài 7 cm, gờ bên 3 cm dùng để đặt đòn nóc. Có thể trình bày như bảng sau[12].
Chú thích: dấu asteris (*) là trỏ số liệu tàn khuyết do đo trên phế tích.
Từ những số liệu như trên, chúng tôi có thể đi đến một nhận định rằng cột đá chùa Dạm không phải là “hình sinh thực khí nam có chạm nổi hình rồng thời Lý”[13], bởi lẽ chưa từng có một cái linga nào ở Champa, Phù Nam,… mà lại được tạc ngàm với hệ thống lỗ ở phía trên cả. Trong khi người ta cố gắng đi tìm những chứng cứ Ấn Độ, Champa (hay chứng cứ có nguồn gốc Nam Á) để “giải Hoa” thì họ cũng đã vô tình “giải Việt” mà không hay biết.
Có thể nói, những nghiên cứu trên là rất có ý nghĩa cho khoa lịch sử mỹ thuật. Tuy nhiên, kiến trúc trên có những hàm nghĩa triết học và ý tưởng nghệ thuật ra sao thì còn là một vấn đề cần được thảo luận tiếp sau đây.
3. Giải mã biểu tượng cột Đá chùa Dạm
Sau những bài viết khảo tả công phu, tác giả Nguyễn Hùng Vỹ tiếp tục đề xuất cách lý giải biểu tượng của kiến trúc cột đá chùa Dạm. Năm 2011, ông cho rằng kiến trúc một cột chùa Dạm có khả năng là một “nhiên đăng đài” giống như Nhiên đăng tháp chùa Đồng Tử đời Đường và đài đèn Quảng Chiếu đời Lý. Theo dõi những nghiên cứu trên, Tạ Chí Đại Trường đã “phải rút lại ý kiến xác quyết về hình tượng một mukhalinga, như đã nói ở nhiều bài viết” và cho rằng đó là “nhận định quá đà, khó được chấp nhận” [14]. Cho đến nay, đây là ý kiến phản hồi duy nhất của những người theo thuyết linga. Năm 2012, Trần Thị Kim Anh đã nghi ngờ thuyết “nhiên đăng” của Nguyễn Hùng Vỹ mà cho rằng cột đá chùa Dạm là một kinh tràng Phật giáo[15]. Ngay sau đó, dựa trên kiến giải mới về kiến trúc một cột chùa Diên Hựu[16], Trần Thị Kim Anh, Nguyễn Hùng Vỹ và một số nhà nghiên cứu khác đã từ bỏ các giả thuyết cũ để thống nhất cho rằng, đây là một Liên Hoa Đài, tương tự như ở chùa Diên Hựu Hà Nội[1
7].
Hình 4: núi Tu Di và các tầng sóng, tầng núi (sách: Pháp giới an lập đồ).
Đến đây, những phương trình có thể được đặt ra. Cột đá chùa Dạm là một phế tích còn lại của Liên Hoa Đài chùa Dạm. Liên Hoa Đài chùa Dạm là đồng dạng về loại hình với Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu. Và như thế, chúng sẽ có cùng chung một ý nghĩa biểu tượng.
Theo chúng tôi, kiến trúc Liên Hoa Đài thời Lý, đặt trong bối cảnh văn hóa và thế giới quan của Phật giáo, là một kiểu kiến trúc mô phỏng núi Tu Di- ngọn núi trung tâm của vũ trụ[18]. Ngọn núi này cao tám vạn do tuần, đỉnh mở rộng ra tám vạn do tuần trông như một bông sen khổng lồ, đó là một bông sen vũ trụ. Trên đỉnh ngọn núi hoa sen đó là cung trời Đao Lỵ- nơi trú xứ của Phật Thích Ca. Bao quanh ngọn núi Tu Di là tám vòng núi và tám vòng biển (gọi gộp là cửu sơn bát hải). Đúng như Nguyễn Du Chi đã viết các chùa đời Lý thường có các tháp tượng trưng cho núi thiêng Tu Di, bao quanh là những công trình bố trí theo đồ án hình vuông tượng trưng cho bốn đại dương trong thế giới[19].
Hình 5: Núi Tu Di, Ung Hòa Cung (Trung Quốc). nguồn: internet.
Trở lại với việc khảo tả Liên Hoa Đài chùa Dạm, chúng ta có thể thấy rõ sự tương ứng giữa hình tượng kiến trúc- điêu khắc với thế giới quan Phật giáo qua kinh sách. Nền dưới cùng là các tầng đá xếp có tạc sóng nước, núi non- đó là biểu tượng của các tầng biển và các tầng núi bao quanh núi Tu Di. Trên lớp sóng là đôi rồng theo mô típ lưỡng long hiến châu, một biểu tượng cho sự quy y Phật pháp. Phía trên nữa là hệ thống các xích đông đỡ một tòa sen- tượng trưng cho đỉnh núi Tu Di. Trên tòa sen là một điện đỏ tía có đặt tôn tượng Thích Ca dát vàng như miêu tả trong văn bia chùa Đọi.
Đồ hình thiết kế của Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu cũng như Liên Hoa Đài chùa Dạm có thể tìm thấy qua hệ thống tranh khắc Phật giáo tại Việt Nam. Hình trên là bức đồ họa mang tên “Tô Di Lô Sơn Vương”, miêu tả núi Tu Di ở giữa, có các vòng núi non và biển cả bao quanh. Đây là bức đồ họa được dùng để minh họa trong sách Pháp giới an lập đồ- một cuốn sách kinh điển của Phật giáo dùng để miêu tả về sự cấu thành vũ trụ, đây là một trong những sách quan trọng hàng đầu về thế giới quan Phật giáo. Nhìn vào tác phẩm này, chúng ta thấy thủ pháp ở đây là kết hợp cả hai cách nhìn cao viễn và phi điểu trong hội họa truyền thống. Để tưởng tượng rõ hơn, chúng ta có thể thấy một mô hình thu nhỏ được làm bằng đồng, đó là mô hình núi Tu Di được đặt tại Ung Hòa Cung (Trung Quốc), tuy nhiên mô hình này làm vào đời Thanh, muộn hơn Liên Hoa Đài ở chùa Dạm rất nhiều.
Núi Tu Di bản thân nó đã mang hình một bông sen, nếu nhìn trên bình đồ của cửu sơn bát hải, chúng ta có thể thấy đó là một đồ hình hoa sen trong hoa sen. Hoa sen là thế giới, và thế giới nở ra trong hoa sen. Cho nên đồ hình núi Tu Di- hoa sen vũ trụ đó được nhà Phật định danh bằng khái niệm “Liên Hoa Tạng Thế giới”. Mỗi một thế giới là một đóa hoa sen. Ba nghìn đóa sen là ba nghìn thế giới. Cho nên, vua Trần Nhân Tông trong một lần du lãm đến chùa đã miêu tả:
Mười hai lâu đài khoe tranh vẽ,
Ba ngàn thế giới lọt mắt thơ
(十二樓臺開畫軸,
三千世界入詩眸)
Đằng sau “con mắt thơ” ước lệ đó hẳn cũng phải có gì đó là thật chứ?
[1] 1977. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập 1, Viện sử học, NXBKHXH. [chuyển dẫn Trần Lâm Biền. 2000. sdd. tr-62].
[2] Phan Cẩm Thượng. 1997. Điêu khắc cổ Việt Nam (Ancient Sculpture of Vietnam). Nxb Mỹ Thuật. Hà Nội. tr-71.
[3] Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long. 2010 (in lần thứ 4). Chùa Việt Nam. (in lần thứ 4). Nxb Thế giới. Hà Nội. Tr.96.
[4] Chu Quang Trứ. 2000, tb2012. Sáng giá chùa xưa. Nxb Mỹ Thuật. Hà Nội., tr.160-161. Chu Quang Trứ. Để hiểu đầy đủ hơn về cột đá chùa Dạm. Tạp chí VHNT, số 11/1999.
[5] Chu Quang Trứ. tb2012. Trông về chùa Dạm (viết cùng Thanh Hương). Trong “Mỹ thuật Lý Trần- mỹ thuật Phật giáo”. Nxb Mỹ thuật. Hà Nội. tr. 386-387.
[6] Trần Lâm Biền. 2000. Một con đường tiếp cận lịch sử. nxb VHDT. Hà Nội. tr. 63.
[7] Trần Lâm Biền. 2000. sdd. tr.66.
[8] Trần Ngọc Thêm. 1996. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Tp Hồ Chí Minh. Tp Hồ Chí Minh. Tr.265- 495.
[9] Tạ Chí Đại Trường. 2006. Thần- người và đất Việt. Nxb Văn hóa Thông tin. Hà Nội. tr.104- 105.
[10] Ngô Văn Doanh. 1990. Hình tượng Quan Âm Nam Hải và cột đá chùa Dạm. Tc Khảo cổ học số 1-2, tr.95-98.
[11] Nguyễn Hùng Vỹ. 2011. Tiếp tục quan sát cột đá chùa Dạm. http://khoavanhoc-ussh.edu.vn
[12] Nguyễn Hùng Vĩ. 2001. Quan sát cột đá Chùa Một Cột ở núi Dạm. Trong “45 năm khoa Văn học 1956-2001”. Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội. 583-593.
[13] Trần Ngọc Thêm. 2011 (tb lần 8). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.128.
[14] Tạ Chí Đại Trường. Về cây cột đá chùa Dạm. Tạp chí Xưa & Nay số 400, tháng 3/2012.
[15] Trần Thị Kim Anh. 2012. Cột đá chùa Dạm là một Phật tràng. http://xuandienhannom.blogspot.com
[16] Trần Trọng Dương. Chùa Một cột không phải là chùa! Tc Tia sáng, số tháng 04/2012. tr.50-52.
[17] Trần Thị Kim Anh. 2012. Trao đổi thêm về cột đá chùa Dạm. http://vanhoanghean.vn
Nguyên Khôi. 2012. Một đề xuất cách phục dựng chùa Diên Hựu. tiasang.com.vn
[18] Trần Trọng Dương. 2012. Biểu tượng núi vũ trụ Tu Di- Meru trong văn hóa Việt Nam và châu Á. Tc Nghiên cứu Mỹ thuật. 08/ 2012. tr.23-36.
[19] Nguyễn Du Chi. 2001. Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông. Nxb Mỹ Thuật- Viện Mỹ thuật. Hà Nội. tr. 22.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét