Hiển thị các bài đăng có nhãn stupa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn stupa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2020

Chùa Một Cột - Diên Hựu: Từ bi ký đến thực tế ảo - hành trình 10 năm

Nguồn: Trần Trọng Dương, "Từ bi ký đến thực tế ảo: hành trình 10 năm", Tia sáng, số 21-05/11/2020, tr.41-46. Sản phẩm công nghệ thực tế ảo VR3D chùa Diên Hựu và kiến trúc Một cột thời Lý của nhóm SEN Heritage là một kết quả đúc kết từ 10 năm nghiên cứu và tổng hợp các giả thuyết của giới khoa học (khảo cổ học, mĩ thuật học lịch sử, văn hiến học, biểu tượng Phật giáo…) trong vòng gần 50 năm trở lại đây. Từ hàng trăm hàng ngàn mảnh vụn và phế tích khảo cổ, bản tái lập chùa Diên Hựu đã phỏng dựng tổng thể mặt bằng mandala chùa tháp thời Lý, với phong cách Lý, và kĩ thuật xây dựng đương thời. Đây chỉ là số hóa một giả thuyết trong số rất nhiều giả thuyết mà nhóm đã đưa ra. Nhưng dẫu sao cũng cần trình bày lại toàn bộ quá trình lập giả thuyết cũng như hiện thực hóa giả thuyết này bằng công nghệ thực tế ảo. Từ những sử liệu trên văn bia chùa Đọi năm 1121 Chùa Một Cột hiện nay là một sản phẩm phục dựng có niên đại 1955, được thực hiện bởi Nguyễn Bá Lăng sau khi chùa bị đặt bom đánh sụp vào ngày 9-11-1954. Nguyễn Bá Lăng đã dựa trên bản vẽ của Pháp có phong cách cuối Nguyễn, và lắp ghép trang trí kiến trúc từ các di tích khác. Muốn phục dựng hình dáng chùa Một Cột ban đầu thì tôi buộc phải xuất phát từ các sử liệu đương thời. Phần lớn các học giả đều trích Đại Việt sử ký toàn thư về sự kiện khởi dựng chùa năm 1059 với sự kiện vua Lý nằm mơ được Quan Âm dắt lên tòa sen. Nhưng đây chỉ là tư liệu đã bị biên tập qua lăng kính của người đời sau. Sử liệu nguyên cấp đời Lý duy nhất hiện còn chính là văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (bia chùa Long Đọi, Hà Nam) do Thượng thư bộ Hình Nguyễn Công Bật soạn (được khắc năm 1121) có ghi cụ thể về đợt xây dựng trùng tu năm 1105 như sau: “Tôn sùng đạo Phật, hâm mộ mống lành. Noi Tây Cấm danh lừng thượng uyển; mở Diên Hựu gọi đó danh lam. Theo quy chế vốn có trước kia; ra mưu tính ý vua nay tỏ. Đào ao thơm mang tên Linh Chiêu; giữa ao kia cột đá vọt đứng. Đỉnh cột nở ngàn cánh hoa sen; hoa đặt vững một tòa điện thắm. Trong điện đặt Thích Ca kim tướng; bên ngoài ao là hành lang vẽ bọc quanh. Ngoài hành lang có Bích Trì khơi vòng; đều bắc cầu vồng đi thông vào. Sân nơi cầu trước, tả hữu dựng tháp báu lưu ly…” Tư liệu gốc này cho phép tôi trong công trình năm 2012-2013, đi đến những nhận thức mới về chùa Một Cột- Diên Hựu như sau: + Tên chùa thời Lý là Diên Hựu tự, chứ không phải là “chùa Một Cột” như đời sau. Đây là một ngôi chùa tháp điển hình của phong cách Lý, chứ không phải là “hai ngôi chùa” như một số người vẫn hiểu. + Tôn tượng thờ ở trung tâm kiến trúc một cột là Thích Ca kim tướng (Năng Nhân) chứ không phải là Quan Thế Âm Bồ Tát. + Tòa điện thờ Phật Thích Ca là một tòa kiến trúc sơn đỏ (cám điện紺殿) tương ứng với các ghi chép trong các văn bia Lý – Trần. (Phạm Lê Huy 2016) + Tòa điện thờ Thích Ca đặt trên một đóa hoa sen nghìn cánh ở đỉnh cột (kiến trúc hiện nay không còn bảo lưu tòa sen này). Đây có thể là một cấu kiện chịu lực, hoặc chỉ là một thành phần trang trí thuần túy. + Kiến trúc một cột không phải là “chùa Một Cột” mà chỉ là một stupa - dạng tháp thờ Phật đời Lý (hoặc được gọi là Liên Hoa Đài như hoành phi và câu đối, hoặc Nhất Trụ tự như bi ký đời sau ghi). + Tháp một cột này không phải là một đơn nguyên kiến trúc phụ nằm ở phía sau chùa như hiện nay mà nằm ở trung tâm của chùa Diên Hựu. Tháp một cột khi đó có chức năng tâm linh quan trọng nhất, giống như tam bảo, thượng điện trong các tự viện đời sau. + Tháp một cột không phải nằm giữa ao Linh Chiểu (như Toàn thư ghi nhầm) mà là ao Linh Chiêu. + Ngoài ao Linh Chiêu không phải là bao lơn đá (mới được xây năm 1923 bởi Viện Viễn đông Bác cổ Pháp), mà là hành lang có mái (hoàn lang, họa lang) bọc xung quanh hồ. Hành lang này có họa đống, và vẽ các tích chuyện Phật giáo, để sư tăng chạy đàn, nhiễu Phật. + Cây cầu bắc vào tháp một cột không phải xây bằng gạch (sản phẩm của Hoàng Cao Khải xây năm 1899), mà là một cây cầu gỗ (phi kiều). + Ngoài hoàn lang và ao Linh Chiêu là ao Bích Trì bao bọc từ bốn phía (hiện nay ao Bích Trì không còn). + Bắc qua ao Bích Trì phải có ít nhất 1 cầu, và nhiều nhất 4 cầu ở 4 phía đông- tây- nam- bắc. Như vậy tổng số cầu bắc qua hai ao gồm các giả thuyết sau: (1) giả thuyết tối thiểu 2 cầu qua 2 ao ở mặt nam, (2) giả thuyết trung bình có 5 cầu: 4 cầu ở ao ngoài, 1 cầu ở ao trong; (3) giả thuyết tối đa có 8 cầu: 4 cầu ao ngoài và 4 cầu ao trong. + Phía đầu mỗi cầu qua ao Bích Trì có 2 tháp lưu ly. Như vậy, có tổng số là 8 tháp. + Có 4 sân ở bốn phía của ao Bích Trì (ao ngoài). Theo bia chùa Đọi 1121, thì nơi này diễn ra nghi lễ múa Tứ Thiên Vương vào các dịp khánh tiết, lễ lạt lớn của nhà Phật. + Ngoài 4 sân lại có hành lang giải vũ bao bọc bốn phía, với 4 cửa đi vào từ 4 hướng. Ở mỗi hướng đi vào là có một tòa điện thờ Tứ vị Thiên Vương, gồm: điện Bắc phương Thiên Vương, Nam phương Thiên Vương, Đông phương Thiên Vương, Tây phương Thiên Vương. + Phía ngoài điện Nam phương Thiên Vương còn có hai tháp chóp trắng (bạch manh) được xây dựng vào năm 1105. (theo Toàn thư). + Ngoài hai tháp bạch manh này là môt tòa lầu chuông Quy Điền (theo Toàn thư). Từ tái lập bình đồ như trên, tôi cho rằng, chùa Diên Hựu trùng tu năm 1105 là một chùa tháp tiêu biểu của kiến trúc Phật giáo Lý Trần. Ban đầu, khi khởi dựng vào năm 1049, chùa đã có tháp một cột dựng trên mặt đất (đúng như kiểu tháp một cột ở Dạm), nằm ở trung tâm chùa, nên còn được gọi là tự trụ (削石之寺柱, Toàn thư). Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông có ý tưởng mới về quy hoạch tổng thể: đào thêm hai ao, xây hành lang có mái đi nhiễu quanh ao Linh Chiêu, dựng các cầu bắc vào tháp một cột,… Toàn bộ bình đồ này đã mô phỏng đồ án mandala (mạn đồ la) theo đúng kinh điển Phật giáo được ghi chép trong các bộ Hoa Nghiêm, Pháp hoa, Pháp giới an lập đồ, Hoa tạng truyện, Phật tổ thống kỷ.
Luận điểm quan trọng nhất của tôi cho rằng, khi xây dựng một công trình kiến trúc, là người ta hiện thực hóa cấu trúc tâm linh và thế giới quan. Cho nên xây dựng một ngôi chùa là hiện thực hóa một vũ trụ quan Phật giáo, một ngôi chùa là một tiểu vũ trụ mang hình dáng mandala- nơi chư Phật hải hội. Ngoài Diên Hựu thì nhiều ngôi chùa tháp khác ở Đại Việt thời Lý đều có mô hình mandala, nhưng lại được hiện thực hóa theo nhiều hình thức khác nhau như Chùa Dạm, chùa Phật Tích, chùa Long Đọi, chùa tháp Chương Sơn,... Mandala chùa Bách Môn có 5 đỉnh với 1 lầu ở trung tâm, và 4 đỉnh lầu mái ở bốn góc. Bàn thờ theo hình chữ thập đặt các tượng pháp theo bốn hướng để có thể hành lễ và nhiễu Phật vòng quanh chùa. Mandala chùa Ngưỡng Sơn Linh Xứng có đào ao trong mái điện, và đặt tượng Phật giữa ao... Còn nhiều loại hình mandala khác nữa không thể nêu hết ở đây. Nhưng tôi vẫn muốn nhấn mạnh rằng, khi xây dựng một ngôi chùa là người xưa đã hiện thực hóa thế giới quan của mình bằng nghệ thuật kiến trúc. Năm 2013, trong cuốn sách của mình, tôi gọi đó là "thế giới quan kiến trúc học Phật giáo". Các kiến trúc chùa tháp kết hợp với việc cải tạo mặt bằng, hoặc dựa núi hướng sông, hoặc đặt tháp ngay trên đỉnh núi (như Chương Sơn chẳng hạn), tôi gọi đó là "thế giới quan địa lý học Phật giáo". Mỗi một đỉnh núi là một Linh Sơn, là một núi Tu Di, trên đó người xưa cho dựng một ngôi chùa một ngọn tháp là hình dung về một cõi niết bàn ngay giữa nhân gian, để hướng thiện và khuyến hóa chúng sinh.
Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo ở Nam Á hay Đông Á, dù có nhiều điểm khác nhau về thức kiến trúc và kĩ thuật kiến trúc, nhưng đều chung một ý niệm triết học- đó là mandala thế giới. Ở Nam Á, các công trình kiến trúc chùa tháp xây dựng theo kiểu bát úp với nhiều đỉnh tháp đồng tâm hướng thượng, và mặt bằng mô phỏng mandala như Borobudur, Angkor Wat, Neak Pean, các chùa tháp Champa… Trong khi đó, ở Đông Á, truyền thống chùa tháp được dựng theo thức lâu các (lầu gác), chồng tầng, chồng lầu, có mái, như chùa tháp Đa Bảo (Hàn Quốc), Pháp Long (Nhật Bản), Tang Da (Tây Tạng),... Mỗi một tầng lầu là một không gian thờ tự mô phỏng các caitya của Phật giáo Nam Á. Kiến trúc Việt Nam hòa kết cả hai xu hướng này, tháp Chăm là Nam Á, còn tháp Đại Việt là Đông Á. Mà tháp Đông Á lại là một dạng địa phương hóa (localisation) trong một nền tảng giao thoa tiếp biến từ văn hóa Nam Á.
Tái lập phong cách kiến trúc Lý từ cột đá chùa Dạm Khi phục dựng mặt bằng chùa Diên Hựu và kiến trúc một cột thời Lý, chúng tôi dựa trên độ tụ của sử liệu, gồm: các cứ liệu khảo cổ học các tư liệu bi ký, và chính sử. Dựa trên phế tích cột đá chùa Dạm (1086-1094?), văn bia Sùng Thiện Diên Linh và nhiều hiện vật khảo cổ khác, SEN Heritage đã thử tái lập bình đồ Mandala của chùa Diên Hựu (1105) và hình thái kiến trúc Liên Hoa Đài thời Lý với hình dáng một lầu hoa sen sáu cạnh một cột (Việt sử lược). Còn khi lắp ghép trang trí kiến trúc thì chúng tôi kế thừa các thành quả khảo cổ học tại Hoàng Thành Thăng Long, Chùa Dạm, Chương Sơn, Phật Tích,... Về cơ bản, đó là một cuộc ngược dòng lịch sử để thử đưa ra một giả thuyết tái lập một loại hình kiến trúc đặc thù theo phong cách Lý và theo bối cảnh tư tưởng, cũng như phong khí thời đại. Từ năm 2012-2013, tôi cho rằng, việc tái lập, phỏng dựng chùa Diên Hựu thời Lý buộc phải sử dụng, kế thừa các thành tựu khảo cổ học thời Lý. Trong đó hiện vật quan trọng nhất là cột đá chùa Dạm có niên đại khoảng 1088-1094. Để phản biện lại quan điểm cho rằng cột đá này là một linga (dương vật) mang ảnh hưởng văn hóa Chăm, văn hóa Nam Á, tôi cho rằng: một ngôi chùa Phật phải được xây dựng trên tư tưởng triết học Phật giáo. Nếu đó là một linga thuộc văn hóa Hindu giáo tượng trưng cho thần Shiva, thì đó là một sai nhầm cơ bản trong nghiên cứu biểu tượng học tôn giáo. Mặt khác, một ngôi chùa Phật giáo Hoàng gia nhà Lý (sử dụng hệ tư tưởng trong Hán tạng bắc truyền như Hoa nghiêm kinh,…) khó có thể sử dụng một biểu tượng của Hoàng gia Champa- kẻ thù đối địch của mình ở phương nam. Lưu ý thêm là Đại Việt và Champa đã có những cuộc chiến giằng co trong các năm 1044, 1069, 1074-1075, 1104. Các tù binh nô lệ bắt được trong các giai đoạn này (ở cả hai phía: tù binh Champa ở Đại Việt, và tù binh Đại Việt ở Champa), nếu có tham gia xây dựng chùa tháp, thì có lẽ chỉ được dùng làm phu khuân vác, phu đóng gạch,… chứ khó có thể trở thành tổng công trình sư của Hoàng gia Đại Việt. Dựa trên khảo sát hệ thống lỗ ngàm, rãnh dầm chịu lực,… của cột đá chùa Dạm, tôi cho rằng cột đá chùa Dạm là hiện vật duy nhất còn sót lại của phế tích kiến trúc một cột thời Lý- đồng dạng về loại hình kiến trúc với tháp một cột ở chùa Diên Hựu. Từ 2013- 2017, tôi thử đặt nhiều giả thuyết khác nhau để tính toán các phương án kĩ thuật, hình thái kiến trúc của tháp một cột thời Lý. Các giả thuyết bao gồm: (1) tháp vuông 1 tầng mái; (2) tháp vuông 2 tầng mái; (3) tháp vuông 3 tầng mái; (4) tháp lục giác 1 tầng mái; (5) tháp lục giác 2 tầng mái; (6) tháp lục giác 3 tầng mái; (6) tháp bát giác 1 tầng mái, (7) tháp bát giác 2 tầng mái (8) tháp bát giác 3 tầng mái; (9) tháp tròn 1 tầng mái, (10) tháp tròn 2 tầng mái (11) tháp tròn 3 tầng mái. Năm 2015, tôi nhờ Đào Xuân Ngọc vẽ giúp các phương án chồng mái của tòa điện vuông (xem hình trên). Sau khi cân nhắc, tôi tạm gác lại các phương án 2 mái và 3 mái vì nó nặng nề, khó khả thi; và các phương án tròn và bát giác được đặt xuống vị trí thứ yếu, vì cũng chưa có sử liệu. Chỉ còn lại hai phương án là vuông và lục giác. Phương án vuông thì dễ được chấp nhận nhất vì kiến trúc vẫn còn từ cuối thế kỷ 19 đến nay, và đã trở thành biểu tượng lịch sử, tạo cảm giác thân quen, gần gũi. Phương án này đã được hiện thực hóa trên tờ bìa của sách Kiến trúc một cột thời Lý (2013). Đến năm 2017, tôi thiên về giả thuyết lục giác vì ba lý do như sau. (1) cột đá chùa Dạm có 6 lỗ ngàm, mỗi lỗ có số đo là 17x17x34cm ; (2) các lỗ ngàm này tạo thành 6 cung đều trên phần bạt tròn ở gần đỉnh cột, (3) Việt sử lược có mô tả về một loại lầu chuông một cột hoa sen 6 cạnh (độc trụ lục giác liên hoa chung lâu 獨柱六角蓮花鐘樓) trong Hoàng thành Thăng Long triều Lý. Từ đó, tôi và Đào Xuân Ngọc đã cùng thảo luận và phác thảo bản vẽ kĩ thuật của hình thái kiến trúc 6 cạnh này (bản này hiện chưa công bố). Ý kiến này đã được tôi đề cập trên trang cá nhân và được Hiệu Sicula và Duy Nguyễn mô họa, và công bố online ngay trong năm đó. (xem hình dưới). Điểm đáng chú ý là bản vẽ này có sự phát triển về nhận thức khi áp dụng hệ thống đấu củng truyền thống của Lý trên cơ sở của hiện vật khảo cổ học và một số di tích cổ hiện tồn, đây là đóng góp riêng của hai tác giả- thành viên của SEN Heritage nay.
Với luận điểm rằng, chùa Diên Hựu có mặt bằng mandala đồng tâm đa tầng bốn hướng mô phỏng một tiểu vũ trụ theo thế giới quan Phật giáo, tôi cho rằng, tháp một cột –Liên Hoa Đài thời Lý là một hiện thực hóa ngọn núi Tu Di (Tô Mê Lô). Một tiểu vũ trụ có cấu trúc cửu sơn bát hải (chín núi tám biển), trong đó núi Tu Di nằm ở trung tâm, tám vòng núi và tám vòng biển lần lượt mở rộng ra thành một bình đồ mandala vũ trụ. Núi Tu Di bản thân nó đã mang hình một bông sen, nếu nhìn trên bình đồ của cửu sơn bát hải, chúng ta có thể thấy đó là một đồ hình hoa sen trong hoa sen. Hoa sen là thế giới, và thế giới nở ra trong hoa sen. Cho nên đồ hình núi Tu Di – hoa sen vũ trụ đó được nhà Phật định danh bằng khái niệm “Liên Hoa Tạng Thế Giới”. Giới thiệu như vậy để thấy rằng, Liên Hoa Đài một cột thời Lý là sự hiện thực hóa ngọn núi Tu Di huyền thoại bằng nghệ thuật kiến trúc. Và bình đồ của Diên Hựu cùng các tầng đá chạm sóng nước núi non kè dưới chân tháp một cột chính là sự hiện thực hóa đồ án cửu sơn bát hải trong Hoa nghiêm kinh và nhiều kinh điển Phật giáo khác. Mottif cửu sơn bát hải là một mã nghệ thuật hằng xuyên của mĩ thuật Lý-Trần. (Trần Trọng Dương 2015)
Đến bản VR3D Diên Hựu: số hóa một giả thuyết Trước nay việc phỏng dựng di tích cổ hầu như không đạt được nhiều kết quả do thiếu thốn tư liệu và hạn chế về khoa học kỹ thuật. Các cuộc khai quật khảo cổ học trong nhiều chục năm qua đã phát lộ hàng trăm ngàn hiện vật và hàng triệu mảnh vỡ. Từ những mảnh vỡ ấy, các nhà nghiên cứu mới có thể so sánh đối chiếu và tái lập các giả thuyết khác nhau. Việc tái lập một bình gốm cổ từ các mảnh vỡ vốn đã khó khăn, còn phục dựng tổng thể mặt bằng một di tích, cùng các đơn nguyên kiến trúc, hình thái kiến trúc, trang trí kiến trúc, cấu kiện kiến trúc và hệ thống đồ tượng của một di tích nào đó thì gần như chưa được thực hiện. Dù khó khăn, nhưng công việc này cũng đã được thực hiện đây đó bằng các bản vẽ phỏng dựng, như Nguyễn Bá Lăng vẽ tháp chùa Trò, Nguyễn Anh Tuấn vẽ mô phỏng tháp Phật Tích, tái lập sư tử tòa cho tượng A Di Đà thời Lý. Gần đây hơn nữa là mô hình tháp đất nung tại Bảo tàng Quảng Ninh được thực hiện bởi nhóm Nguyễn Văn Anh. Năm 2018, Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế đã thực hiện bản số hóa VR3D tổng thể cung điện thời Nguyễn trong dự án “Đi tìm Hoàng cung đã mất”. Đây là đột phá mới trong việc áp dụng khoa học công nghệ vào phục hồi di sản, và tái dựng các không gian kiến trúc cổ đã mất. Dự án “Bước vào lịch sử: chùa Một Cột và công nghệ thực tế ảo” của SEN Heritage là sản phẩm đầu tiên thực hiện phỏng dựng tổng thể kiến trúc chùa Diên Hựu theo phong cách Lý, với niên đại 1105. Mặt bằng tổng thể chùa Diên Hựu và hình thái tháp một cột dựng theo các giả thuyết mà tôi đã nêu ở trên. Từ bi kí, hiện vật khảo cổ đến bản vẽ phỏng dựng 2D là một quá trình lao động, suy ngẫm, cân nhắc giữa các giả thuyết. Từ bản vẽ 2D đến bản VR3D lại là một quá trình khổ công khác của hơn chục con người. Khởi đầu từ concept ý tưởng, sau đó hiện thực hóa bằng concept kỹ thuật, dựng model, đặt lưới- bỏ lưới, tỉa từng chi tiết, lắp ráp từng cấu kiện, từng bộ đấu củng- rường- cột, lắp ráp các họa tiết trang trí mĩ thuật, tất cả đều phải có thông số kỹ thuật, rồi cuối cùng chạy render, xuất file, dựng phim, xuất ảnh... Mọi số liệu đều chạy từ các số liệu đo đạc cột đá trung tâm: cột đá chùa Dạm. Nhóm đã tiến hành phỏng dựng các đơn nguyên kiến trúc sau: tượng Thích Ca, tháp một cột ở trung tâm, hoàn lang quanh ao Linh Chiêu, năm cầu bắc qua các ao, hành lang giải vũ quanh ao Bích Trì, bốn tòa điện Tứ Thiên Vương, tám tháp lưu ly, hai tháp bạch manh, các đèn đá đặt ở các không gian, lầu chuông Quy Điền,… Còn nếu thống kê các chi tiết của các đơn nguyên kiến trúc trên thì con số lên đến hàng nghìn đơn vị.
Về mặt khoa học, mọi chi tiết phỏng dựng hay tái lập đều phải xuất phát từ hiện vật khảo cổ, tư liệu chữ viết và tư liệu hiện tồn tại di tích. Vì niên đại xác định của Diên Hựu là 1105, nên chúng tôi đã sử dụng khoảng 10 năm điền dã và xử lý tư liệu gốc. Tiêu chí tái lập và mô phỏng là sử dụng các hiện vật có niên đại Lý, mang phong cách Lý, mang đặc trưng Phật giáo, có các đặc điểm tạo hình của hoàng gia. Trong đó chú trọng các hiện vật có niên đại từ 1121 trở về trước, và châm chước sử dụng một số tư liệu đời sau, bởi ta biết Lý- Trần là hai triều đại có kế thừa và ảnh hưởng về phong cách cũng như kỹ thuật xây dựng. Về bộ mái, chúng tôi kế thừa kết quả và thành tựu khảo cổ học tại hoàng thành Thăng Long của Viện Khảo cổ và Viện Nghiên cứu Kinh thành. Các hiện vật được sử dụng để tái lập bộ mái là ngói ống lá đề phủ lưu ly vàng, đầu rồng (xi vẫn trang trí trên nóc mái), ngói nửa lá đề (lá đề lệch), ngói lá đề song long hiến châu, ngói góc đao, đầu đao, tượng nhạn đất nung,… Đây đều là các hiện vật tại hoàng thành Thăng Long. Hiện vật để tái lập trụ một cột đỡ tòa điện và kè đá có đồ án cửu sơn bát hải là cột đá chùa Dạm có niên đại 1094. Hiện vật để tái lập tượng Thích Ca là tượng Phật chùa Phật Tích (1057). Cột đá Bách Thảo phong cách Lý giữa thế kỷ 11 (Ngọc Hà, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia- BTLSQG) dùng để tái lập chân đèn. Tòa sen nghìn cánh của tháp một cột sử dụng đồ án trang trí tại các ngưỡng sen tu di tòa chùa Phật Tích, chùa Chương Sơn, và cửu phẩm liên hoa của Tịnh độ tông Việt Nam. Tảng trụ thì dùng hiện vật tại chùa Phật Tích (BTLSQG). Tám tháp lưu ly phỏng dựng theo mô hình tháp đất nung (BTLSQG): nguyên bản chỉ còn 4 tầng, chúng tôi phục dựng thêm 3 tầng đã mất. Đấu củng tiếp thu từ một số mô hình tháp đất nung, và cấu kiện gỗ chùa Bối Khê. Ca Lâu La (Garuda) và rồng đầu dư kế thừa từ trang trí kiến trúc chùa Bối Khê… Các chi tiết cụ thể khác đã được chúng tôi trình bày và hiện thực hóa trong các sản phẩm đã công bố, tạm không nêu hết được ở đây. Kết quả của dự án bao gồm các sản phẩm sau: bản thiết kế kỹ thuật 3D các đơn nguyên kiến trúc trong chùa Diên Hựu, phim 3D, bản VR3D của mandala Diên Hựu, bản mockup hình thái kiến trúc và cấu kiện kiến trúc của tháp một cột, các sản phẩm hiện thực hóa từ bản phỏng dựng để phục vụ du lịch, trưng bày bảo tàng,… Điểm quan trọng nhất của dự án là công nghệ 3D, VR3D và AR đã giúp cho các nhà khoa học có thể hiện thực hóa giả thuyết của mình như thực trong một không gian ảo. Không gian tuy là ảo nhưng được xây dựng từ các số liệu thực, hiện vật thực,… khiến cho các học giả cũng như công chúng có thể trải nghiệm và góp ý, phản biện cho việc điều chỉnh giả thuyết. Các sản phẩm này vừa là số hóa các mảnh vụn di sản rời rạc vào một hệ thống tái lập và phỏng dựng, nhằm phục vị việc lưu trữ dữ liệu, bảo tồn văn hóa, trùng tu- phỏng dựng phế tích, quảng bá di sản văn hóa thời Lý đến với xã hội đương đại. Các sản phẩm này có thể ứng dụng cho nhiều hoạt động khác nhau, từ nghiên cứu, diễn họa, mô phỏng giả thuyết khoa học, trưng bày bảo tàng, thuyết minh bảo tàng, đến ứng dụng cho du lịch, giáo dục và đào tạo di sản, quảng bá văn hóa truyền thống trong hệ thống giáo dục các cấp. Sản phẩm VR3D có thể sử dụng như là phim trường ảo, sản xuất phim 3D, sản xuất các phần mềm game lịch sử, và có thể hướng đến phục dựng trên một không gian ngoài thực tế. VR3D chùa Diên Hựu giúp người xem có thể ngược dòng thời gian800 năm, để bước đi trong không gian chùa tháp hoàng gia thời Lý. Sản phẩm chính của dự án giúp các thế hệ người Việt của thế kỷ XXI có thể trải nghiệm những nét đẹp vàng son xưa cũ trong một không gian thực tế ảo với công nghệ VR và AR. Nếu như công nghệ VR có thể giúp người xem có thể dạo bước trong không gian cổ, thì công nghệ AR có thể đặt các kiến trúc cổ ra ngoài không gian thực tại.
Mặc dù, tất cả các sản phẩm trên đây mới chỉ là số hóa từ một giả thuyết cho trường hợp chùa Diên Hựu, mặc dù sản phẩm này vẫn đang tiếp tục chỉnh sửa các chi tiết, cập nhật các thành tựu mới, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn, và hiện thực hóa giả thuyết khác…Các sản phẩm này đã công bố online, để có thể làm giáo cụ cho các chương trình giảng dạy về kiến trúc Lý, mỹ thuật Lý, và lịch sử văn hóa Việt Nam, cũng như quảng bá những giá trị văn hóa thời Lý đến với xã hội đương đại. Tài liệu tham khảo: Trần Trọng Dương. Truy tìm loài thú lạ trên mái chùa Một Cột. Tạp chí Tia sáng, số tháng 03/2012. Trần Trọng Dương. Chùa Một Cột không phải là chùa! Tạp chíTia sáng, số tháng 04/2012. Trần Trọng Dương. Biểu tượng núi vũ trụ Tu Di- Meru trong văn hóa Việt Nam và châu Á. Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, Đại học Mỹ thuật Việt Nam. 06/ 2012. tr.23-36. Trần Trọng Dương. Từ thế giới quan Phật giáo, khảo về kiến trúc một cột tại chùa Diên Hựu đời Lý. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển. Huế. 11-2012. Trần Trọng Dương. Cột đá chùa Dạm có phải là linga? Tạp chí Tia sáng. Số 21.05-11-2012, tr.50-53. Trần Trọng Dương (khảo chính), Kiến trúc một cột thời Lý, Suối nguồn 9- Hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên- Tu viện Huệ Quang, Nxb Hồng Đức, Tp.HCM. 2013. Trần Trọng Dương. Biểu tượng sóng nước và núi non trong mỹ thuật thời Lý- Trần . Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật- Đại học Mỹ thuật Việt Nam. 01/2015. Trần Trọng Dương, Đào Xuân Ngọc. Typology of the Mandala Buddhist Architechture of the Lý Dynasty from Writings on Stelas and Archeological Findings. Vietnamese Studies 3/2017. Tr.5-23. Trần Trọng Dương, 2018, Mandala of Literacy in Premodern Vietnam: A Study on Buddhist Temple, Journal of Vietnamese Studies, University of California Press, ISSN: 1559-372X, Electronic: 1559-3738, DOI: http://doi.org/10.1525/vs.2018.13.3.88, Vol. 13, Issue 3, pps. 88 -126.

Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

Sách mới: Kiến trúc một cột thời Lý

KIẾN TRÚC MỘT CỘT THỜI LÝ
(suối nguồn 9, Trung tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang. Nxb Hồng Đức. Tp Hồ Chí Minh. 2013. 305 trang, 96 hình minh họa)

Lời của BBT
Lời mở
Chương 1: Chùa Một Cột hay Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu
1. Tình hình nghiên cứu về kiến trúc, biểu tượng
2. Lịch sử và bản chất khái niệm “chùa Một Cột”
3. Giải mã kiến trúc một cột
4. Nguồn gốc và ý nghĩa biểu tượng của “Liên Hoa Đài”
Chương 2: Phục dựng Liên Hoa Đài trong mandala chùa Diên Hựu
1. Đề xuất thứ nhất: đài sen nghìn cánh là cấu trúc chịu lực
2. Đề xuất thứ hai: Thích Ca Liên Hoa Đài chỉ là một phần của mandala chùa Diên Hựu
3. Đề xuất thứ ba: một cầu, hai cầu hay là tám cầu?
4. Đề xuất thứ tư: tám tháp hay hai tháp?
5. Đề xuất thứ năm: Tứ thiên vương trong cấu trúc mandala
Chương 3: Mandala chùa Diên Hựu trong văn hóa Phật giáo
1. Giới thuyết về mandala và đồ hình mandala trong văn hóa Phật giáo
2. Đồ hình mandala trong lịch sử kiến trúc Việt Nam
Chương 4: Liên Hoa Đài - núi vũ trụ Tu Di trong văn hóa Phật giáo
1. Giới thuyết về núi Meru- Tu Di
2. Núi Meru- Tu Di trong văn hóa Đông Á
3. Núi Meru -Tu Di trong văn hóa Việt Nam
Chương 5: Phục dựng chùa Diên Hựu thời Lý từ hiện vật khảo cổ
1. Bản vẽ phục dựng Liên Hoa Đài trong tổng thể chùa Diên Hựu
2. Những đề xuất phục dựng từ hiện vật khảo cổ
2.1 Cột đá chùa Dạm- hay mô hình nguyên bản của Liên Hoa Đài thời Lý
2.2. Các cầu vồng bắc qua Linh Chiêu và Bích Trì
2.3. Phục dựng các tháp lưu ly
2.4. Phục dựng bạch tháp
2.5. Phục dựng tượng Phật Thích Ca Mâu Ni trong Liên Hoa Đài
2.6. Phục dựng tượng Tứ thiên vương
Phụ chương: Biểu tượng xi vẫn ở chùa Diên Hựu
Phụ lục 1: Một số tư liệu về kiến trúc một cột tại Trung Hoa
Phụ lục 2: Liên Hoa Đài xưa (ảnh)
Phụ lục 3: Hoa tạng thế giới (đồ họa cổ qua kinh sách)
Phụ lục 4: Chùa Một Cột ban đầu (Ngô Văn Doanh)
Phụ lục 5: Tiếp tục quan sát cột đá chùa Dạm (Nguyễn Hùng Vĩ)
Phụ lục 6: Chùa Một Cột (Nguyễn Bá Lăng)
Phụ lục 7: Một số góp ý, trao đổi
Phụ lục 8: Giới thiệu, dịch chú văn bia Sùng Thiện Diên Linh
Tài liệu tham khảo
Bảng tra


Bình đồ phục dựng.

Chú thích:
(1). Liên Hoa Đài (Tu Di sơn)
(2). Ao Linh Chiêu (ao trong)
(3). Các cầu vồng bắc qua ao Linh Chiêu
(4). Các sân diễn xướng múa Tứ thiên vương
(5). Hành lang (hồi lang, họa lang)
(6). Các cầu vồng bắc qua ao Bích Trì
(7). Ao Bích Trì (ao ngoài)
(8). Tám tháp lưu ly
(9). Nam phương
(10). Đông phương
(11). Bắc phương
(12). Tây phương
(13). Hành lang, giải vũ, trai phòng
(14). Bạch tháp
(15). Lầu chuông Quy Điền


LỜI MỞ




Khi xây dựng một công trình kiến trúc tôn giáo là người xưa cho xây dựng cả một thế giới tâm linh. Vì thế, kiến tạo một ngôi chùa đồng thời là xây dựng một Phật giới. Chùa Một Cột không phải là chùa, mà rốt cục vẫn được gọi là chùa. Dù gọi nó là chùa, là tháp (stupa) hay là đài thì tôi đều hiểu rằng, đó chỉ là một, là như như nhất nhất ở nội hàm bên trong. Đó là điều chúng tôi nhận thức được trong quá trình thực hiện cuốn sách này. Giống như núi lại là núi sau quá trình nhận thức - giải nhận thức và dỡ bỏ nhận thức.
Từ nhỏ, tôi đã nghe không biết đến bao nhiêu lần cái tên “chùa Một Cột”, cũng không biết bao nhiêu lần tôi gọi cái danh xưng ấy, và cũng đã nhiều lần viếng thăm chùa với tấm lòng hồ hởi, ngây thơ của con trẻ về một biểu tượng của văn hóa Việt. Có lẽ ở Việt Nam, không có một di tích nào, không một ngôi chùa nào được sách vở, tranh ảnh, các phương tiện thông tin truyền thông đề cập đến nhiều đến thế. Một công trình được dựng trên một chiếc cột, đó hẳn là một độc sáng về ý tưởng, là một thăng hoa trong nghệ thuật kiến trúc của cha ông. Hình ảnh ngôi chùa ấy xuất hiện trên khắp các trang báo, trong các sách hướng dẫn du lịch, trong các công trình nghiên cứu, rồi được họa sĩ cũng như bao lớp đồng ấu vẽ lại. Dù là nét vẽ ngây thơ hay những nét phóng bút chuyên nghiệp, phảng phất trong đó là một niềm tự hào dân tộc. Hẳn nhiên là thế! Rồi kiến trúc ấy được một số tự viện trong nước nhân rộng, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Có khi được dựng bằng mô hình dùng để trang trí, hay đúc đồng làm quà su - vơ - nia để biếu tặng nhau hay bán cho khách du lịch. Chùa Một Cột đã được coi như là biểu tượng của Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội, là biểu tượng của quê hương Việt Nam. Một biểu tượng đã quá rõ ràng vì sự bền vững lấp lánh của nó trong tâm khảm của biết bao thế hệ.
Cơ duyên đưa đẩy tôi đến với cổ học rồi dần dần bắt đầu có ý thức về việc phải nghiên cứu về truyền thống văn hóa nước mình. Xuất phát ban đầu là người nghiên cứu về tiếng Việt lịch sử và văn tự học (chữ Nôm, chữ Hán), tôi thường chỉ biết mày mò trên từng vảy chữ, với những công việc khắc khổ của việc giải độc văn bản, giải mã cấu trúc, thống kê tư liệu. Tôi dần hiểu ra rằng ngôn ngữ là một hệ biểu tượng, và tiếng Việt là hệ biểu tượng của văn hóa Việt. Hứng thú với biểu tượng, tôi dần tự mở rộng mình, từ việc nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, văn học cho đến văn hóa.
Với tư cách là một người làm nghiên cứu, tôi luôn đi theo những “đầu mối của sử liệu” giống như một người phá án đang lần theo những “sợi tóc chứng cứ” để từ đó đi đến những khám nghiệm về “tính chất ADN của lịch sử”. Để nghiên cứu về kiến trúc một cột đời Lý, tôi đọc trước tiên bia Sùng Thiện Diên Linh tại chùa Đọi (Hà Nam), viết năm 1121 do Thượng thư bộ Hình Nguyễn Công Bật- người đương thời chấp bút. Đọc sử liệu, với tôi, luôn phải là đọc bằng nguyên bản chữ Hán, bởi chỉ có tư duy nguyên ngữ/ cảm nhận nguyên ngữ mới có thể giúp ta được điều gì đó, còn các bản dịch chỉ là tham khảo. Với cách làm việc như vậy, tôi đã bước đầu đạt được những thức nhận đầu tiên mà cuốn sách này là sự cụ thể hóa những thức nhận ấy.
Chuyên luận Kiến trúc một cột thời Lý được phân làm năm chương như sau.
Chương một- “Chùa Một Cột hay Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu”
chương này thể hiện sự tái nhận thức về kiến trúc này trong quá trình đọc lại những nghiên cứu của những người đi trước. Có thể coi đó như là lược sử vấn đề nghiên cứu. Quý vị có thể đọc được ở đây lịch sử của tên gọi “chùa Một Cột”, cũng như các kiến giải của các nhà nghiên cứu trước nay về kiến trúc này. Đó là một “bông sen nghệ thuật khổng lồ” (Chu Quang Trứ), là một tháp Phật (Nguyễn Duy Hinh, Ngô Văn Doanh, Hà Văn Tấn), hay là một linga thể hiện tín ngưỡng phồn thực của người Việt (Nguyễn Đăng Thục, Trần Lâm Biền, Trần Ngọc Thêm),... Từ các cứ liệu văn bản học, chương này cho rằng, “chùa Một Cột” là tên gọi dân gian dành cho kiến trúc nhất trụ của “Liên Hoa Đài” được hình thành từ thế kỷ XVII. Và thực chất, Liên Hoa Đài chỉ là một đơn nguyên kiến trúc trong tổng thể mặt bằng của chùa Diên Hựu. Từ góc độ biểu tượng tôn giáo, Liên Hoa Đài là một công trình nhằm cụ thể hóa, vật chất hóa biểu tượng hoa sen bằng nghệ thuật kiến trúc.

Chương hai- “Phục dựng Liên Hoa Đài trong mandala chùa Diên Hựu”. Sử liệu đương thời về Liên Hoa Đài được sử dụng ở đây là văn bia Sùng Thiện Diên Linh (1121). Quá trình giải độc văn bản gốc (original text) được tiến hành song song với quá trình hiệu điểm, giải mã và hiệu đính của khoa văn bản học. Từ việc giải độc đó chúng tôi đưa ra một số đề xuất phục dựng như sau.
Thứ nhất, đài sen nghìn cánh là cấu trúc chịu lực (đài sen này hiện đã không còn dấu vết).
Thứ hai, Liên Hoa Đài chỉ là một phần của mandala chùa Diên Hựu vào thời Lý. Mandala này có bình đồ đa tầng, đồng tâm với hai vòng ao và Liên Hoa Đài ở trung tâm của nó.
Thứ ba, chúng tôi cho rằng, chùa Diên Hựu thời Lý không thể nào chỉ có một cầu như hiện nay, mà khả năng có nhiều cầu bắc qua hai ao. Giả thuyết tối thiểu là có hai chiếc cầu bắc ở mặt Nam. Giả thuyết trung bình là có 5 cầu (trong đó 4 cầu bắc ở bốn hướng của ao ngoài) và 1 cầu bắc qua ao trong, đây là giả thuyết nhóm Ngô Văn Doanh đã đưa ra. Một giả thuyết nữa, là có 6 cầu. Cũng như giả thuyết trung bình, nhưng có thêm một cầu nữa bắc ở mặt Bắc vào đến Liên Hoa Đài. Giả thuyết tối đa là có tám cầu, bắc qua Đông, Tây, Nam, Bắc của hai ao Bích Trì, và Linh Chiêu. Giả thuyết này dựa trên nguyên tắc đối xứng của các mandala thời cổ.
Thứ tư, về số lượng tháp. Từ việc phân tích sử liệu đề cập đến các kiểu tháp lưu ly và tháp bạch manh, chúng tôi đề xuất rằng đây là hai loại tháp khác nhau. Tháp bạch manh là loại tháp lớn, có khả năng nằm ngoài khuôn viên của mandala Diên Hựu. Còn các tháp lưu ly được đề cập đến trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh là loại tháp sứ hoặc gốm, nhỏ hơn và nằm trong mandala. Cũng theo nguyên tắc đối xứng của mandala, chúng tôi cho rằng có tám tháp lưu ly được dựng ở bốn sân, ngay ở đầu các cầu của ao ngoài Bích Trì. Cũng xin lưu ý ở đây, bốn sân cũng là một điểm mới trong cách phục dựng này.
Ngoài ra, phần này cũng lưu ý thêm một đóng góp nữa là về hành lang ngăn cách giữa hai ao Bích Trì và Linh Chiêu. Đó có khả năng cao là một hành lang có mái (không như ngày nay), trên cột hoặc vách có vẽ các tích chuyện Phật giáo. Như giải thích của nhóm Ngô Văn Doanh, hành lang này dùng để chạy đàn khi mở pháp hội.
Thứ năm, từ sử liệu trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh, chúng tôi đề xuất rằng sẽ có tôn tượng Tứ Thiên Vương trong cấu trúc mandala chùa Diên Hựu. Giả thuyết này được củng cố bởi các sử liệu có đề cập đến tục thờ Tứ Thiên Vương trong văn hóa Phật Giáo thời Lý, cũng như hình tượng - tôn tượng các vị thần này trong các ngôi chùa Việt ở các đời sau. Trong các dịp Phật đản, hay lễ nghi Phật giáo, sẽ có diễn xướng múa Tứ Thiên Vương tại bốn phía sân. Ngoài ra, còn có một số đề xuất nhỏ khác ở mục này. Nếu như đã có tôn tượng, hẳn tôn tượng đó được đặt trong các công trình kiến trúc có mái. Kiến trúc này có hai chức năng, vừa là đề thờ, vừa là cửa để đi vào. Nên rất có khả năng các kiến trúc ấy có hai tầng. Tầng trên đặt tượng, tầng dưới làm lối đi. Kết nối với bốn đơn nguyên kiến trúc này có khả năng là tường, hoặc là các hành lang, giải vũ trai phòng bao quanh đồ hình mandala.

Chương ba- “Mandala chùa Diên Hựu trong văn hóa Phật giáo”.
Vì mandala là một thuật ngữ của kiến trúc Phật giáo còn khá xa lạ với nhiều độc giả, nên ở phần này chúng tôi tập trung giới thiệu về khái niệm này cũng như những biểu hiện của nó trong văn hóa, đặc biệt là trong nghệ thuật kiến trúc Phật giáo của Việt Nam cũng như các nước Đông Á và Đông Nam Á. Với quan điểm, mỗi một ngôi chùa là một Phật giới, mỗi một Phật giới là một mandala vũ trụ, chương này sẽ chủ yếu đưa ra một cái nhìn tổng quát về sự thể hiện của ý niệm mandala trong nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Đại Việt thời Lý. Đó là tư duy thế giới quan- địa lý học và thế giới quan- kiến trúc học trong lịch sử văn hóa.

Chương bốn - “Liên Hoa Đài - núi vũ trụ Tu Di trong văn hóa Phật giáo”.
Từ việc phục dựng bình đồ mandala của chùa Diên Hựu thời Lý, chúng tôi đã có cơ sở để lý giải về biểu tượng của Liên Hoa Đài một cột thời Lý. Xuất phát từ thế giới quan Phật giáo được đề cập đến trong một số bộ sách như Phật Tổ thống kỷ, Pháp giới an lập đồ, Hoa tạng truyện, …, chúng tôi cho rằng Liên Hoa Đài là một công trình kiến trúc mô phỏng ngọn núi vũ trụ Tu Di. Núi Tu Di là ngọn núi mang hình hoa sen nằm ở trung tâm của mandala thế giới. Ngọn núi ấy là nơi đức Phật Thích Ca trú xứ, là trung tâm của một tiểu vũ trụ, là trung tâm của thế giới. Bao quanh núi Tu Di là tám vòng núi và tám vòng biển. Nhìn trên bình đồ, cả một tiểu vũ trụ (cửu sơn bát hải) là hình ảnh hoa sen nở ra hoa sen, hoa sen nở ra thế giới. So sánh với các kiến trúc mandala mô phỏng Phật giới như Angkor Wat, Borobudur, chùa Tang Da,… chúng ta thấy kiến trúc mandala với Liên Hoa Đài làm trung tâm là một sáng tạo độc đáo của con người Đại Việt xưa. Hình ảnh kiến trúc một cột mô phỏng đóa hoa sen, nằm ở trung tâm của mandala chùa Diên Hựu là một sự Việt hóa tài tình mà táo bạo trong lịch sử nghệ thuật kiến trúc. Đó là một loại hình kiến trúc mang tính quốc tế, ở tầm quốc tế.

Chương năm- “Phục dựng chùa Diên Hựu thời Lý từ hiện vật khảo cổ”.

Chương này thực hiện được trên cơ sở nghiên cứu của các chương trước, nhằm tính đến các phương án phục dựng về mặt vật chất đối với chùa Diên Hựu thời Lý. Trong đó, các cứ liệu khảo cổ học được coi như là yếu tố then chốt trong quá trình phục dựng sau này. Trước tiên, chương này đưa ra bản vẽ phục dựng Liên Hoa Đài trong tổng thể mandala chùa Diên Hựu. Sau đó các hiện vật khảo cổ, và mỹ thuật cổ được cân nhắc để từ đó hướng đến việc giải mã biểu tượng và phục dựng.

Ngoài năm chương chính, chuyên luận còn có một phụ chương- “Biểu tượng xi vẫn ở chùa Diên Hựu”.

Xuất phát từ hình tượng xi vẫn trong bài thơ “Diên Hựu tự” của đức Trúc Lâm Tam Tổ Huyền Quang, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử, quá trình truyền nhập của biểu tượng này từ Ấn Độ đến Trung Hoa và Việt Nam. Quá trình đi tìm hình tượng xi vẫn không chỉ dừng lại ở nội hàm của biểu tượng này, mà chúng tôi còn tìm kiếm hình ảnh thực của nó qua các hiện vật khảo cổ. Như một cuộc lội ngược dòng quá khứ, các hiện vật xi vẫn từ Nguyễn, Lê, Trần cho đến Lý đã phần nào cho chúng ta thấy sự chuyển biến về phong cách tạo tác cũng như hơi thở của từng thời đại. Việc phát hiện ra hình tượng xi vẫn thời Lý – mà trước nay vẫn bị gọi là đầu rồng, có thể coi là đóng góp lớn nhất của phụ chương này cho việc phục dựng chùa Diên Hựu trong tương lai.
Bên cạnh các chương trên, chuyên luận còn cung cấp thêm tám phụ lục. Phụ lục một cung cấp một số sử liệu về kiến trúc một cột Trung Hoa. Sở dĩ, chúng tôi không đưa những dữ kiện này vào chính văn bởi lẽ ở Trung Quốc hiện không còn các di tích này, và chúng tôi hiện cũng chưa xác định được đây có phải là kiến trúc Phật giáo hay Đạo giáo? Nhưng đúng như Lê Quý Đôn đã trích dẫn trong cuốn Vân đài loại ngữ nổi tiếng, những sử liệu trên là khá quan trọng, cho ta cái nhìn khu vực về dạng kiến trúc này để từ đó tiếp tục tìm hiểu thêm trong tương lai.
Phụ lục hai cung cấp một số hình ảnh Liên Hoa Đài xưa và nay. Phụ lục ba cung cấp các bức đồ họa cổ trong kinh sách Phật giáo, nội dung của các bức đồ họa này là mô tả núi Tu Di trong mandala thế giới.
Phụ lục bốn là bài khảo cứu của nhóm Ngô Văn Doanh được in trên tạp chí Khảo cổ học vào cuối những năm 1970, nhưng đã có những sửa chữa, bổ sung mới. Đây có thể coi là bài viết có giá trị nhất về kiến trúc một cột tại chùa Diên Hựu trong thế kỷ XX. Tiếc rằng trong mấy chục năm qua, giả thuyết này ít được biết đến. Chính vì thế, chúng tôi đã xin phép tác giả được in lại bài viết này để cung cấp thêm tư liệu cho quý vị độc giả. Nhân đây xin gửi lời cảm ơn đến GS Ngô Văn Doanh.
Phụ lục năm là bài viết “Tiếp tục quan sát cột đá chùa Dạm” của nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ. Đây là bài cuối cùng của tác giả trong số năm bài ông viết về kiến trúc một cột đời Lý. Bài này trước nay mới chỉ được công bố trên mạng, nay chúng tôi cũng xin phép in lại ở đây.
Phụ lục sáu chúng tôi tuyển lại bài “Chùa Một Cột” của Nguyễn Nam Kinh tức kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng - người đã dựng lại Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu vào năm 1955 như ta thấy ngày nay. Bài này đã từng công bố ở hải ngoại, nay chúng tôi thấy BBT của báo Hương Sen đã đưa lên mạng, nên cũng mạn phép in lại bởi có nhiều thông tin quý giá. Vì tác giả đã mất và chúng tôi lại chưa có nhân duyên liên lạc được với gia đình ông cũng như BBT tờ Hương Sen, rất mong quý vị nếu đọc được những dòng này xin vui lòng liên lạc với chúng tôi qua địa chỉ thư điện tử trantrongduonghn@gmail.com để chúng tôi gửi lời tri ân và thăm hỏi.
Phụ lục bảy là hai bài viết của các nhà báo Việt Quỳnh và Nguyên Khôi. Nguyên ủy vào tháng 5 năm 2012, chúng tôi đã có buổi thuyết trình “Kiến giải mới về kiến trúc một cột chùa Diên Hựu” do tạp chí Tia Sáng và Không gian sáng tạo Café Trung Nguyên tổ chức. Trong buổi thuyết trình này có nhiều nhà nghiên cứu như Lê Văn Cương, Nguyễn Hùng Vĩ, Trần Thị Kim Anh, Trần Hậu Yên Thế, Phạm Lê Huy, Nguyễn Phúc Anh, Nguyễn Bá Dũng… đã đóng góp nhiều ý kiến quan trọng. Một số đã được tiếp thu trong lần xuất bản này, còn một số ý kiến khác chúng tôi chưa thực hiện được vì ngoài khả năng, vì thế xin in lại bài tường thuật của Nguyên Khôi ở đây để quý vị có thể suy ngẫm thêm giúp chúng tôi. Bài của nhà báo Việt Quỳnh chủ yếu phỏng vấn các chuyên gia về mỹ thuật cổ và kiến trúc cổ như Phan Cẩm Thượng, Lê Thiết Cương, Lý Trực Dũng. Dù là tán thành hay không, chúng tôi cũng in lại nguyên văn để rộng đường thảo luận. Nhân đây xin chân thành cảm ơn các quý vị đã bớt chút thời gian để bổ khuyết và góp ý cho nghiên cứu này.
Phụ lục tám là phần giới thiệu, dịch chú văn bia Sùng Thiện Diên Linh. Đây là sử liệu gốc quan trọng nhất và là gợi ý khởi nguồn cho chuyên luận này, nên chúng tôi đã hiệu điểm, chú thích và dịch lại.
Mặc dù đã rất cố gắng, song cuốn sách cũng sẽ khó tránh khỏi sai sót, mong quý vị nếu có ý kiến xin liên lạc trực tiếp với chúng tôi.
Lời cuối cùng, chúng tôi xin gửi lời tri ân đến BBT của tập san Suối Nguồn, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ Thuật, Tạp chí Tia Sáng, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (Huế), quỹ Nafosted cũng như một số bạn bè và các nhà khoa học đã góp ý để chuyên luận này được hoàn thành.
Chèm- Từ Liêm, rằm tháng giêng năm Quý Tỵ
Trần Trọng Dương