Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

từ nguyên của "nhà quan", "nhà nước", "nhà vua"

nhà quan ◎ Nôm:
dt. lời bề tôi tôn xưng nhà vua, dịch chữ quan gia 官家. Sách Tư trị thông giám資治通鑒phần Tấn Thành đế Hàm Khang tam niên晉成帝咸康三年do Hồ Tam Tỉnh 胡三省chú: 西漢謂天子為縣官,東漢謂天子為國家,故兼而稱之。或曰:五帝官天下,三王家天下,故兼稱之”. (đời Tây Hán gọi Thiên tử là Huyện quan, đời Đông Hán gọi là Quốc gia, nên gộp xưng là quan gia. Có người cho rằng: Ngũ đế cai quản (官) thiên hạ, Tam vương đặt định (家) thiên hạ, nên gọi vậy). ẩn cả lọ chi thành thị nữa, Nào đâu là chẳng đất nhà quan. (Ngôn chí 17.8). dịch câu 普天之下,莫非王土,率土之濱,莫非王臣 phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ, suất thổ chi tân, mạc phi vương thần (dưới khắp gầm trời, đâu chẳng đất vua, trên mọi bến bờ, ai không thần tử) [Kinh thi]. Ăn lộc nhà quan chịu việc quan, Chớ tham tiểu lợi phải gian nan. (Bảo kính cảnh giới 144.1). Tương tự, nhà vua < vương gia王家, nhà nước < quốc gia國家. (trích Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển)

xem thêm:





TÌM HIỂU Ý NGHĨA HAI MÃ CHỮ QUỐC GIA (國家) THỜI TRẦN THÁI TÔNG

TS. Phạm Văn Thắm (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

Có thể nói, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho thần dân gọi vua bằng Quốc gia. Hai chữ Quốc gia đã thể hiện quan niệm và trách nhiệm của nhà vua đối với đất nước Đại Việt.


Nhà Trần, bắt đầu từ Trần Cảnh lên ngôi vua vào ngày 12 tháng 12 năm 1225 đã không ngừng thực thi các chính sách trị nước để củng cố ngôi vị, trong đó có việc qui định cách xưng hô. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 18 (1250), nhà vua đã xuống chiếu cho thiên hạ 稱帝為國家.(Đại Việt sử ký toàn thư, bản chữ Hán khắc in năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tr.175, tờ 16a-b). Khi chuyển mệnh đề này sang Việt văn, có bản dịch để nguyên âm Hán Việt là Quốc gia và không có lời giải thích (1). Có bản dịch đã chữa chữ Quốc (國) thành Quan (官) và có chú giải (2). Về hai mã chữ này, chúng tôi xin được nêu ý kiến như sau:

1. Về thời gian thực thi cách gọi vua là Quốc gia (國家) và thời điểm xuất hiện cách gọi vua là Quan gia (官家)

1.1. Về thời gian thực thi cách gọi vua là Quốc gia (國家).

Chúng ta biết rằng vua Trần Thái Tông lên ngôi vua vào ngày 12 tháng 12 năm 1225, ở ngôi 33 năm, nhường ngôi 19 năm, mất năm 1278. Năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 18 (1250) nhà vua đã xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua bằng Quốc gia (國家). Qui định gọi vua bằng Quốc gia lẽ dĩ nhiên được thực thi trong thời gian Trần Thái Tông ở ngôi đến năm 1258. Cách gọi vua bằng Quốc gia có được tiếp tục thực hiện trong thời gian vua Trần Thái Tông nhường ngôi làm Thái Thượng hoàng hay không ? Hiện chưa đủ tư liệu để khảo cứu. Nhưng cách gọi vua bằng Quốc gia được tồn tại trong 9 năm (1250-1258).

1.2. Về thời điểm xuất hiện cách gọi Quan gia (官家)

Cho đến nay, chưa thấy tư liệu nào ghi chép về qui định gọi vua là Quan gia (官家). Tìm trong sử sách thì thấy có một lần, Trần Thái Tông khi đã nhường ngôi giữ chức Thượng hoàng gọi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đến và muốn trao chức Tư đồ để tiếp sứ Bắc. Trần Quốc Tuấn trả lời:

與接之使者臣不敢辭。如拜司徒則臣不敢奉詔。況官家遠征,光啟浥從而陛下自行封拜,上下情意恐有未安不慡官家和光啟之意, 俟架回拜命不晚.

(Đại Việt sử ký toàn thư, bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tr.200, tờ 1a-b).

Phiên âm: Dự tiếp chi sứ giả, thần bất cảm từ. Như bái Tư đồ tắc thần bất cảm phụng chiếu. Huống Quan gia viễn chinh, Quang Khải ấp tòng nhi bệ hạ tự hành phong bái, thượng hạ tình ý khủng hữu vị an bất sảng Quan gia hòa Quang Khải chi ý. Sĩ giá hồi bái mệnh vị vãn.

Dịch nghĩa: Dự tiếp sứ giả, thần không giám từ chối. Còn như thăng chức Tư đồ, thần không giám vâng chiếu, [vì] Quan gia đi đánh giặc phương xa, Quang Khải đi theo hộ giá mà bệ hạ tự làm việc phong chức, [e] lòng người trên dưới sợ có chỗ không yên và cũng không vừa ý Quan gia và Quang Khải. Đợi xa giá trở về, việc phong chức cũng chưa muộn.

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vua Trần Thánh Tông thân chinh đi đánh giặc phương xa vào năm Bảo Phù thứ 5 (1277). Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm Bảo Phù thứ 5 (1277), vua Trần Thánh Tông, một lần hỏi Uy Văn Vương Toại (3) về nghĩa của từ Quan gia, Uy Văn Vương Toại đáp:

五帝官天下,三王家天下。故曰官家"Ngũ đế quan thiên hạ, tam vương gia thiên hạ. Cố viết quan gia" (Thời ngũ đế coi thiên hạ là của chung, thời tam vương coi thiên hạ là nhà chung (4) (Đại Việt sử ký toàn thư, bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tr.186, tờ 37a-b). Cho nên gọi là Quan gia. Vua Trần Thánh Tông đã khen Uy Văn Vương Toại có kiến thức rộng.

Từ các cứ liệu nêu trên, cho thấy thời điểm xuất hiện cách gọi vua là Quan gia có thể vào thời Trần Thánh Tông lên ngôi vua ( 1259-1278).

2. Ý nghĩa của hai mã chữ Quốc gia (國家)

Qui định cách gọi vua bằng các thuật ngữ kính trọng có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ xưa. Sử sách chép rằng Tần vương Doanh Chính sau khi tiêu diệt 6 nước Ngụy, Hàn, Triệu, Sở, Yên và Điền Tề thống nhất đất nước cho rằng danh hiệu Vương (王) không thích hợp với ông, bèn lệnh cho quan Thừa tướng và Ngự sử bàn đổi danh hiệu. Các quan xin đổi danh hiệu là Thái hoàng 泰皇. Tần Doanh Chính sau khi xem xét đã hạ lệnh bỏ chữ Thái 泰 để lại chữ Hoàng 皇, lấy chữ đế 帝 thời thượng cổ để ghép lại thành Hoàng đế 皇帝. Ý nguyện của Tần Doanh Chính lấy hiệu Hoàng đế là để công lao sự nghiệp của ông được lưu lại cho con cháu muôn đời.

Tần Doanh Chính sau khi lấy hiệu Hoàng đế, sai bề tôi suy nghĩ đề xuất các nội dung bảo đảm quyền uy hành xử cho Hoàng đế. Trước hết, về cách xưng hô, Hoàng đế tự xưng là Trẫm 朕, mệnh ban ra gọi là chế 制, lệnh ban xuống gọi là chiếu 詔... Đến đời Hán, những qui định bảo đảm quyền uy cho danh vị Hoàng đế được cụ thể hơn. Thiên tử nhà Hán tự xưng là Trẫm. Thần dân gọi Hoàng đế là Bệ hạ 陛下. Lời của Hoàng đế gọi là chế chiếu 制詔, sử quan ghi chép sự việc dâng lên vua gọi là thướng 上. Vật dụng Hoàng đế dùng như xa giá, y phục, khí giới gọi là thừa dư 乘與. Nơi Hoàng đế ở gọi là cấm trung 禁中, ấn 印Hoàng đế dùng gọi là tỷ 壁... Như vậy, một nội dung bảo đảm quyền uy hành xử cho Hoàng đế là cách xưng hô giữa Hoàng đế với dân chúng. Cách xưng hô này biểu thị sự tôn kính giữa thần dân với Hoàng đế. Các vương triều phong kiến Trung Quốc đời sau đều tuân theo qui định này.

Ở Việt Nam, thần dân cũng đã tiếp nhận cách xưng hô gọi vua là bệ hạ. Nhưng cũng có triều đại như vua Lý Thái Tông năm Thiên Thành thứ 7 (1034), xuống chiếu lệnh cho các quan khi tâu việc trước mặt vua thì gọi vua bằng Triều đình (朝庭) (5). Lý Thánh Tông xưng là Vạn Thặng, Lý Cao Tông bảo người gọi vua là Phật (6). Triều đình (朝庭) mang nhiều nét nghĩa, trong đó có nét nghĩa chỉ nơi các quan vào triều nghị việc và cũng có nét nghĩa chỉ chính quyền trung ương giải quyết công việc, và là từ dùng để gọi thay cho từ đế vương. Cách xưng hô này biểu thị sự tập trung, và thâu tóm quyền lực của vương triều Lý.

Về nghĩa của mã chữ Quốc gia, theo Từ điển tiếng Việt thì từ này mang nét nghĩa chỉ nhà nước (Từ điển tiếng Việt. Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1999) hay nước hoặc nước nhà (Từ điển tiếng Việt, Nxb. KHXH, H. 1988). Để tìm hiểu ý nghĩa của hai mã chữ Quốc gia, chúng tôi tiếp cận các sự kiện xảy ra trong thời gian Trần Thái Tông cầm quyền thì thấy:

Việc tổ chức bộ máy nhà nước nhất là việc bổ nhiệm người để thực thi quyền lực, Trần Thái Tông đều dựa theo huyết thống. Theo Đại Việt sử ký toàn thư năm 1226, Trần Thái Tông phong Trần Thủ Độ là chú họ làm Quốc sư, năm 1234 cho Tri Thanh Hóa phủ sự. Tháng 5 năm 1226 phong em là Nhật Hiệu làm Khâm thiên Đại vương. Năm 1228 phong anh là Liễu làm Thái úy, năm 1234 lấy Thái úy Liễu làm Phụ chính. Năm 1236 định quan hàm: Phàm người tôn thất vào chính phủ hoặc là Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái úy hoặc là Tư đồ, Tả Hữu tướng quốc đều kiêm hàm Kiểm hiệu đặc tiến nghi đồng tam ty Bình chương sự. Năm 1241, vua Trần Thái Tông phong con trưởng làm Đại vương, con thứ làm Thượng vị hầu.

Về kinh tế, nhà vua thực hiện việc cắt đất phân phong. Năm 1237, Trần Thái Tông đã lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm thang mộc ấp.

Về văn hóa xã hội, quan hệ vua tôi hòa thuận. Năm 1251 vua ban yến ở nội điện, các quan đều dự, khi uống say, mọi người đứng cả dậy dang tay mà hát.

Từ các sự kiện nêu trên, có thể thấy quan niệm của nhà vua về công việc trị vì. Đó là quyền lực được chia sẻ cho dòng họ, đất đai được phân cắt cho anh em. Bổng lộc vua tôi cùng hưởng. Vua Trần Thái Tông lệnh cho thiên hạ gọi vua bằng hai chữ Quốc gia đã thể hiện ý nguyện của nhà vua muốn thần dân biết được quan niệm trị vì của ông và hai mã chữ này cũng thể hiện rõ chức năng của nhà vua đối với công việc xây dựng, bảo vệ đất nước Đại Việt.

Tư tưởng của Trần Thái Tông cũng đã được vua Trần Thánh Tông khi nối ngôi vẫn tiếp tục tinh thần trị vì của vua cha. Có lần Trần Thánh Tông nói với các tôn thất:

Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quí với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc của tông miếu xã tắc (7).

Có thể nói, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho thần dân gọi vua bằng Quốc gia. Hai chữ Quốc gia đã thể hiện quan niệm và trách nhiệm của nhà vua đối với đất nước Đại Việt.

Chú thích:

(1) Đại Việt sử ký toàn thư. T.II, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.23.

(2) Nguyên văn chú thích: Quốc gia, ngờ là bản in lầm. Vì Quan gia là tiếng để gọi vua đời Trần thường hay gặp. Chưa có sách nào ghi gọi vua là Quốc gia. Chúng tôi sửa lại. (Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.22).

(3) Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Uy Văn Vương Toại là chồng của công chúa Thụy Bảo. Công chúa Thụy Bảo là con gái của vua Trần Thái Tông.

(4) Chúng tôi dịch theo cách giải thích của Từ nguyên. Thương vụ ấn thư quán. 1999. Bắc Kinh. Mục từ Quan. tr.444.3

(5) Đại Việt sử ký toàn thư. T.I, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.256.

(6) Đại Việt sử ký toàn thư. T.I, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.256. ghi theo lời bình của sử thần Lê Văn Hưu.

(7) Đại Việt sử ký toàn thư. T.II, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.37.

Tài liệu tham khảo

1- Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. KHXH, H. 1971.

2- Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. KHXH, H. 1998.

3- Từ điển tiếng Việt. Nxb. KHXH, H. 1988.

4- Từ điển tiếng Việt. Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1999.

5- 中國官制大辭典。黑龍江人民出版社。1992

6-中國官制史。中國出版集團。東方出版中心。2006

7- 辭源。商務印書館。北京。1999 .

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 6 - 2008

Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012

từ nguyên của "NHÀ CẢ" trong thơ Nôm Nguyễn Trãi

nhà cả ◎ Nôm:
dt. dịch chữ đại trạch大宅, nghĩa là “trời đất, kiền khôn, vũ trụ” [Từ Nguyên: 0358]. Sách Hậu Hán thư phần Phùng Diễn liệt truyện: 游精神於大宅兮 (thần khí chơi khắp vũ trụ chừ).
Đống lương tài có mấy bằng mày, Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay. (Tùng 219.2).

Trong bài thơ, rõ ràng là cả đống lương (phẩm chất kẻ trượng phu) và nhà cả đều được dùng với nghĩa bóng. Không có chuyện gỗ tùng có thể chống nhà lớn. Vì nếu đã làm cột thì lấy đâu cội rễ bền, còn dâu “nhuốm tuyết sương”. Tác giả đem đến cho ta một hình ảnh tùng trực diện giữa trời đất thiên nhiên và một biểu tượng về đại trượng phu tùng trong ngầm ý so sánh với chính phẩm cách mình, tâm trạng mình [Nguyễn Hùng Vỹ 2005: 34].
(Trích Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển)


Nhân đây xin đăng lại toàn văn bài của Nguyễn Hùng Vỹ.


Hai chữ NHÀ CẢ trong bài thơ “Tùng” của Nguyễn Trãi
Nguyễn Hùng Vĩ

“Tùng” là một bài thơ hay nằm trong di cảo thơ Nguyễn Trãi. Nó không bị lẫn vào các thơ Nôm Lê Thánh Tông, Tao Đàn hay thơ ca thời Lê- Trịnh. Các nhà sưu tập thơ Nguyễn Trãi đều để tâm đến bài thơ này khi phiên âm và chú giải nó. Bùi “Tùng” đã vào sách giáo khoa và được chú thích, bình giảng nhiều lần. Song rất tiếc, có hai chữ trong bài thơ này chưa được hiểu cặn kẽ, thậm chí còn được hiểu sai lệch. Đó là hai chữ “nhà cả” trong câu thơ:
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay.
Các tác giả cuốn “Nguyễn Trãi toàn tập” (Nxb.KHXH, 1976) chú thích về hai chữ này: “nhà cả: chữ Hán là đại hạ. Có câu thơ “nhất mộc chi đại hạ” (một cây đỡ tòa nhà). Câu này có ý là mình đã từng đôi phen làm cái việc lớn ấy.
Chúc thích này cung cấp cho ta những thông tin sau:
- Nhà cả là dịch từ chữ đại hạ.
- Đòi phen được hiểu là “đôi phen”.
- “Tòa nhà lớn” được hiểu là “triều đình”, “đỡ tòa nhà lớn” là làm việc triều đình, làm làm lương đống cho quốc gia.
Có lẽ từ chú giải này, sách giáo khoa dần dần chỉ hiểu rằng cây tùng cây tùng có thể làm rường cột để xây dựng ngôi nhà lớn cũng như người quân tử có thể làm lương đống cho nước nhà.
Trước đây, khi tiếp xúc với văn học Nguyễn Trãi, chúng tôi đã có ý nghi ngờ chú giải cho rằng, gỗ tùng có thể là vật liệu khỏe để xây dựng nhà cửa. Trong quan sát văn hóa truyền thống, ở Việt Nam, hầu như chúng tôi chưa thấy người ta dùng thông làm rường cột chịu lực bao giờ. Gỗ thông mềm, dọc thớ, dễ choác, dễ mục. Ngay cả việc dùng nó làm ván vách trwcs đây cũng cực kỳ hiếm hoi. Như vậy, ắt hẳn hai từ “nhà cả, trong bài thơ không thể hiểu là ngôi nhà lớn, cụ thể như nhiều người vẫn hieur. Nguyễn Trãi khi sáng tạo ra bài thơ này đã không dùng với nghĩa đó.
Trong Quốc âm thi tập , chúng tôi thấy tất cả các kết cấu có gắn liền với từ cả đều có dấu ấn của sự chuyển dịch từ những ẩn ngữ Hán. Ví dụ như:
- Liêm cần tiết cả (đại tiết) tua hằng nắm.
- Ẩn cả (đại ẩn) lọ chi thành thị nữa.
- Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền.
- Tự nhiên cả muốn (đại dục) chúng suy nhường.
- Kìa ai cây cả (đại thụ) nhàn ngồi tựa.
- Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả (đại nghĩa).
- Cả lòng (đại lượng) mượn lấy đắp hơi cùng.
- Tài đống lương cao ắt cả dùng (đại dụng).
Tất cả các từ trên đều được các từ điển và các chú giải thơ ca giải thích nghĩa ẩn dujg của nó. Ngay cả trường hợp từ cả đứng một mình trong câu thơ sau:
Nước càng tuôn đến bể càng cả.
Thì cũng gợi ý ta nhớ về thành ngữ quen thuộc “tràng giang đại hải”. Rõ ràng là trong việc xây dựng ngôn ngữ thơ ca, văn học Việt Nam đã tiếp thu tinh hoa một nền văn chương kỳ cựu nhất thế giới, một nền thơ ca giá trị nhất thế giới để làm giàu có cho mình.
Có thể hai từ “nhà cả” trong câu thơ của Nguyễn Trãi là chuyển dịch từ hai từ đại hạ như tác giả NTTT đã chú vì hai từ này có nghĩa bóng rộng hơn là ngôi nhà lớn. Song chúng tôi cho rằng hợp lý hơn cả là Nguyễn Trãi đã chuyển dịch từ hai từ “đại trạch”.
“Trạch” trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh giải thích nghĩa là “nhà ở, mồ mả, ở”. Từ nguyên giair thích “đại trạch” nghĩa thứ nhất, phổ biến là “thiên địa”, nghĩa thứ hai là ngôi nhà lớn dành cho các vua chư hầu. Đến đây đọc lại đoạn thơ của bài Tùng ta thấy tác giả đã dùng từ nhà cả rõ ràng với nghĩa “trời đất”, “thiên địa”, “vũ trụ|:
Đống lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rẽ bền rời chẳng động.
Tuyết sương đã thấy đặng nhiều ngày.
(Năng lực, phẩm cách làm lương đống có mấy ai bằng được tùng
Bao phen đứng ”chống trời chống đất” vững vàng thay.
Thế mà cội rễ vẫn bền chuyển chẳng hề lay
[Vì đứng giữa đất trời nên] thấy nhiều ngày nhuốm trải tuyết sương).
Trong bài thơ, rõ ràng là cả đống lương (phẩm chất kẻ trượng phu) và nhà cả đều được dùng với nghĩa bóng. Không có chuyenj gỗ tùng có thể chống nhà lớn. Vì nếu đã làm cột thì lấy đâu cội rễ bền, còn dâu “nhuốm tuyết sương”. Tác giả đem đến cho ta một hình ảnh tùng trực diện giữa trời đất thiên nhiên và một biểu tượng về đại trượng phu tùng trong ngầm ý so sánh với chính phẩm cách mình, tâm trạng mình, một con người đâu chỉ ẩn dật, khách lâm tuyền mà còn là một đấng trượng phu như sách Mạnh tử nói: phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.
Viết đến đây, tôi thoạt nhớ đến câu thơ của Mai Nham Trần Bích San:
Tiếu hàn nhiên hậu tri tùng bách
Nhân bất phong sương vị lão tài.

từ nguyên của "ngựa", "bà ngựa", "ngự"

bà ngựa ◎ Ngọ午: ngựa [Vương Lực 1958: 36]. Dừng ngựa là ngự 御, 馭, các đồng nguyên tự trên có âm tái lập là ngia [Vương Lực 1982: 139-140; Lưu Quân Kiệt 1999: 308]. Chữ 馭là chữ chỉ ý gồm cái tay (又) và con ngựa. Chữ 御 là chữ hình thanh kiêm chỉ ý: bộ xích 彳trỏ con đường, chữ ngọ午trỏ con ngựa (đồng thời là thanh phù), dưới là chữ chỉ 止(dừng, hãm), bộ tiết 卩 trỏ cái roi. Ngoài ra, còn có chữ 卸 với nghĩa là dỡ đồ [Bernhard Karlgren 1923: 238], nhưng lại lấy tiết 卩làm thanh phù nên đọc là tá, có lẽ nghĩa gốc là dỡ đồ từ trên lưng ngựa xuống, cho nên mới có ngọ 午làm ý phù. Karlgren tái lập âm của ba chữ 馭,御,禦là ngiwo’ [1923: 376]. Ngoài ra còn có ngự 午卩 , mà Huệ Thiên (2004: 305-310) coi là một đồng nguyên tự của ngọ 午. Norman (1985: 88) coi 午 là từ mượn của Mon Khmer, chua tiếng Việt có ngựa, Proto Việt Mường là maŋƏƏ [Ferlus 1992: 57]. Axel Schuessler (1987: 519) tái lập 午 là ŋuoB LH ŋa, OCM *ŋâ, đồng thời cũng xác nhận御là đồng nguyên tự và tái lập là ŋjwoB (1987: 590). Với cứ liệu maŋƏƏ từ tiếng Pakatan, và các cứ liệu bà ngựa trong tiếng Việt cổ có thể nghĩ đến giả thuyết rằng đây là lưu tích của một từ để trỏ ngựa trong tiếng Hán thượng cổ, từ này vốn có tổ hợp phụ âm đầu [mng] (ng có tiền mũi) mà mã là lưu tích của tiền mũi còn [ng] trong ngọ, ngựa là lưu tích của [ng]. Cũng có khả năng maŋƏƏ là cách đọc Việt hóa vào giai đoạn tiếng Việt cổ, như lốc, trọc, trốc ngày nay vốn xuất phát từ một âm Việt hóa vào thế kỷ XV là *tlốc vốn có nguyên từ là độc髑. X. trốc. mắng. Nôm: 婆馭.
dt. con ngựa. (Thủ vĩ ngâm 1.4)‖ (Tự thuật 114.3)‖ Dợ đứt khôn cầm bà ngựa dữ, Quan cao nào đến dạng người ngây. (Bảo kính cảnh giới 137.3). Sách đối đan trì, văn chói chói gấm trên bà ngựa (Lê Thánh Tông- Thập giới cô hồn…) Xích tiểu đằng là dây răng bà ngựa…Mã hành lấy não bà ngựa (Tuệ Tĩnh- Nam dược quốc ngữ phú).
(trích Nguyễn Trãi Quốc âm Từ điển)

Nguyễn Miên Kiền và bài "Tụng Thị học"



Trần Trọng Dương



Nguyễn Miên Kiền (1831- 1855) tự là Trọng Cung, con thứ 55 của Thánh Tổ Nhân hoàng đế Minh Mệnh, em cùng mẹ với Trấn Biên Quận Công Miên Thanh. Khi làm hoàng tử ra mở phủ riêng đi học, thông kinh sử, có văn từ. Năm Thiệu Trị thứ 6, phong làm Phong quốc công. Năm Tự Đức thứ 7, vua ngự thăm nhà Thái Học, ông theo hầu, hiến bài Tụng thị học và được đưa vào cuốn Bích Ung canh ca hội. Năm thứ 7 niên hiệu Tự Đức (1855), ông mất, thọ 24 tuổi, thụy là Hoằng Nhã, đền ở xã Vĩ Dã huyện Phú Vang.
Ông sáng tác không nhiều. Bài dưới là bài duy nhất còn lại của ông. Chúng tôi xin giới thiệu bài tụng này.

Nguyên văn:

視 學 頌 并 序

欽 維, 聖 天 子 ﹕
道 心 昭 晰 ,
聖 學 緝 熙.
綱 紀 四 方, 言 為 法 而 行 為 則,
修 明 百 度, 府 惟 修 而 事 惟 和 。
是 以
南 畝 有 年 , 屢 頌 倉 箱 協 美 。
邊 疆 無 事 , 共 歌 耕 鑿 攸 寧.
良 由﹕
道 合 化 成 ,
仁 滂 施 厚 .
寔 振 古 以 來 未 有 盛 如 此 也 。 乃 蠲 吉 於 本 年 二 月 下 丁 日 , 上 親 釋 奠 於 文 廟 , 禮 成 , 命 駕 視 學 , 宣 敕 勸 勵 多 士, 賚 予 有 加。 臣 自 慚 翕 陋 , 幸 際 昇 平, 獲 睹 隆 儀 , 堪 傳 盛 事 。 爰, 上 頌 一 篇, 敢 擬 吉 甫 如 風 之 旨 用 , 申 野 人 獻 曝 之 忱 。 僅 拜 手 稽 手 以 獻 。

猗 歟 美 哉
夫 子 之 盛 ,
生 知 安 行 ,
天 縱 之 聖 。
大 道 明 兮 ,
炳 日 星 兮 ,
卓 爾 古 今,
蕩 蕩 難 名 兮 。
皇 矣 大 南 。
誕 受 天 眷 ,
東 漸 西 被 ,
奄 撫 赤 縣 ,
丕 顯 丕 承 。
神 聖 繼 作 ,
蒸 民 宴 安,
萬 物 咸 若 ,
聿 思 風 化 ,
治 世 之 源 。
景 仰 先 聖 ,
道 德 之 尊 ,
京 城 之 右 ,
香 水 之 側 。
是 經 是 營 ,
文 廟 奕 奕 ,
學 以 明 德 ,
西 膠 爰 起 ,
以 教 冑 子 ,
以 蒸 髦 士 ,
陶 淑 成 就 ,
五 十 餘 年 。
四 方 向 風 ,
戶 誦 家 絃 ,
吾 皇 仁 德 ,
神 器 夙 膺 ,
文 命 誕 敷 ,
聲 教 聿 興 ,
重 道 崇 師 ,
先 志 是 繼 ,
粉 治 飾 平 ,
儀 文 增 麗 ,
甲 寅 惟 歲 ,
月 是 仲 春 ,
旁 稽 往 牒 ,
鉅 典 載 陳 ,
六 正 于 邁 ,
零 露 未 晞 ,
廟 門 戾 止,
雞 鳴 喈 喈 ,
升 堂 對 越 ,
天 子 穆 凡 ,
百 公 卿 相 ,
祭 祀 攸 肅 ,
鍾 鼓 既 和 ,
俎 豆 孔 嘉 ,
神 之 來 格 ,
享 于 多 儀 ,
裀 祀 克 成 ,
言 視 于 學 ,
風 度 芸 香 ,
日 開 讓 幄 ,
圖 書 歷 歷 ,
緗 帙 牙 籤 ,
濟 濟 多 士,
圜 橋 具 瞻 ,
禹 謨 既 被 ,
庸 書 伊 讓 ,
闡 明 奧 旨 ,
的 是 諸 掌 ,
教 誨 備 矣 。
最 戒 至 矣 ,
賚 之 序 之 ,
恩 膏 備 矣 ,
惟 北 有 辰 ,
眾 星 拱 之 ,
惟 帝 有 道 ,
天 下 奉 之 ,
瞻 喜 北 辰 ,
穆 然 在 所 ,
帝 道 日 新 ,
永 綏 多 祜 。




Phiên âm: thị học tụng tịnh tự

Khâm duy: thánh thiên tử:
Đạo tâm chiêu tích;
Thánh học tập hi.
Cương kỉ tứ phương, Ngôn vi pháp nhi hành vi tắc;
Tu minh bách độ, Phủ duy tu nhi sự duy hoà.
Thị dĩ :
nam mẫu hữu niên, lũ tụng thương tương hiệp mĩ;
Biên cương vô sự, cung ca canh tạc du ninh.
Lương do:
Đạo hợp hoá thành,
nhân bàng thí hậu,
Thực chấn cổ dĩ lai vị hữu thịnh như thử dã.
Cập quyên cát ư bản niên nhị nguyệt đinh nhật, thượng thân thích điện ư Văn Miếu. Lễ thành, mệnh giá thị học, tuyên sắc khuyến lệ đa sĩ, lãi dư hữu gia, thần tự tàm hiệp lậu, hạnh tế thăng bình, hoạch đổ long nghi, kham truyền thịnh sự. Viên thượng tụng nhất thiên, cảm nghĩ Cát Phủ như phong chi chỉ dụng, thân dã nhân hiến bộc chi thầm. Cẩn bái thủ khể thủ dĩ hiến:
Y dư mĩ tai!
Thiên tử chi thịnh,
Sinh tri an hành,
Thiên túng chi thánh,
đại đạo minh hề
Bính nhật tinh hề,
Trắc nhĩ cổ kim,
Đãng đãng hùng danh hề,
Hoàng hĩ Đại Nam,
Đản thụ thiên quyến,
Đông tiệm Tây bị,
Yêm phủ xích huyện,
Phi hiển phi thừa,
Thần thánh kế tác,
Chưng dân yên an,
Vạn vật hàm nhược.
Duật tư phong hoá,
Trị thế chi nguyên.
Cảnh ngưỡng tiên thánh,
Đạo đức chi tôn
Kinh thành chi hữu
Hương thuỷ chi trắc
Thị kinh thị doanh
Văn Miếu dịch dịch
Học dĩ minh đức
Tây giao viên khởi
Dĩ giáo trụ tử
Dĩ chưng mao sĩ
Đào thục thành tựu
Ngũ thập dư niên
Tứ phương thượng phong
Hộ tụng gia huyền
Ngô hoàng nhân đức
Thần khí túc ưng
Văn mệnh đản phu
Thanh giáo duật hưng
Trọng đạo sùng sư
Tiên chí thị kế
Phấn trị sức bình
Nghi văn tăng lệ
Giáp dần duy tuế
Nguyệt thị trọng xuân
Bàng kê vãng điệp
Cự điển tái trần
Lục chính vu mại
Linh lộ vị hi
Miếu môn lệ chính
Kê minh giê giê
Thăng đường đối việt
Thiên tử mục phàm
Bách công khanh tướng
Tế tự du túc
Chung cổ kí hoà
Trở đậu khổng gia
Thần chi lai cách
Hưởng vu đa nghi
Nhân tự khắc thành
Ngôn thị vu học
Phong độ vân hương
Nhật khai nhượng ác
Đồ thư lịch lịch
Tương trật nha thiêm
Tể tể đa sĩ
Hoàn kiều cụ chiêm
Vũ mô kí bị
Dung thư y nhượng
Xiển minh áo chỉ
Đích thị chư chưởng
Giáo hối bị hĩ
Tối giới chí hĩ
Lại chi tự chi
Ân cao bị hĩ
Duy bắc hữu thần
Chúng tinh cũng chi
Duy đế hữu đạo
Thiên hạ phụng chi
Chiêm bỉ bắc thần
Mục nhiên tại sở
Đế đạo nhật tân
Vĩnh tuy đa hỗ.

Dịch nghĩa: Bài tụng thăm nhà học cùng lời tựa

Kính nghĩ: thánh thiên tử
đạo tâm rõ rệt ; thánh học nối sáng.
Làm giường mối cho bốn phương, nói ra là pháp, việc làm là mẫu;
sửa sang cả trăm việc, 6 thứ đều chia sửa sang mà công việc thì hoà.
Cho nên,
đồng ruộng được mùa, thường ca tụng kho tàng đầy đủ;
cõi biên không có việc chiến chinh, cùng hát ngợi cầy cấy an vui.
Nguyên vì: đạo họp nên đã giáo hoá thành công, nhân nhiều ân hậu, thực là từ xưa đến giờ chưa có lúc nào thịnh hơn. Bèn chọn ngày Đinh sau cùng vào vào tháng 2 năm nay, hoàng thượng thân đến tế lễ ở Văn Miếu. Lễ xong, sai sắp xa giá đến thăm nhà học, tuyên sắc khuyến khích học trò, ban thưởng cho nhiều. Thần tự hổ thẹn hủ lậu tối tăm, may gặp buổi thanh bình, được thấy lễ nghi long trọng, đáng truyền bá việc tốt đẹp ấy. Bèn hiến dâng một bài tụng, dám đâu so với ý hay như gió mát của Cát Phủ, chỉ là dãi lòng thành của người thôn dã dâng việc sưởi nắng mặt trời. Xin chấp tay giập đầu hiến lên, lời tụng rằng:
Tốt đẹp lắm thay,
Khổng Phu Tử đức thịnh
Sinh ra đã biết làm theo đạo
Trời phú cho đức thánh nhân
Đạo lớn rõ ràng
Tỏ như mặt trời và các vì sao
Vượt cả xưa nay
Lồng lộng không thể nào xưng hô được
Lớn thay nước Đại Nam
Được trời yêu dấu
Đông tây có khắp cả một khu vực
Vỗ về khắp dân chúng trong bờ cõi
Thánh thần truyền nối
Nhân dân yên ổn
Muôn vật đều thuận tòng
Nghĩ đến phong hóa
Là gốc của đời thịnh trị
Kính ngửa trông tiên thánh
Là tôn chủ của nền đạo đức
ở bên hữu kinh thành,
ở bên cạnh sông Hương
Trù tính xây dựng
Văn Miếu lộng lẫy
Học để sáng cái đức trời trao
Dựng lên nhà học
Để dạy các con cả
Để đào tạo người tài giỏi
Hun đúc dạy dỗ
Trên năm mươi năm
Bốn phương theo bắt chước
Nhà nào cũng đọc sách gáy vàng
Hoàng thượng ta đức lớn
Ngôi tôn quý sớm ngự trị
Văn giáo rộng khắp
Thanh giáo hưng thịnh
Trọng đạo tôn thầy
Kế tiếp cái chí của người xưa
Tô điểm thái bình
Nghi văn thêm tốt
Vào năm giáp dần
Vào tháng trọng xuân
Kê cứu sách trước
Điển lớn sửa làm
Giong xe sáu ngựa ra đi
Từ lúc sương còn chưa ráo
Đến cửa Văn Miếu
Gà gáy le te
Lên nhà làm lễ trước các anh linh trên trời
Thiên tử nghiêm thăm việc làm lễ của triều đình
Chuông trống điều hoà nhịp nhau
Đồ thời đã tốt đẹp đầy đủ
Thần linh cảm cách
Lễ tế đã xong
Đến thăm nhà học
Thái độ phong nhã
Hương cỏ thơm ướp ngào ngạt
Hàng ngày giảng học trong trướng gấm
Sách vở chồng chất
Bìa lụa thẻ ngà
Học trò đông đúc
Đứng vòng quanh cầu để xem giảng
Thiên Vũ Mô trong sách Kinh thư một cách đầy đủ
Lại giảng nghĩa sách Trung dung
Phát huy nghĩa lí uyên áo
Cho sáng rõ như lòng bàn tay
Dạy dỗ đủ rồi
Răn bảo kĩ rồi
Ban thưởng cho
Ân trạch nhiều rồi
Như sao Bắc thần
Là nơi các sao khác chầu về
Nhà vua có đạo
Thiên hạ tuân theo
Trông kìa sao Bắc thần
Vẫn rực rỡ ở đúng ngôi vị của nó
Đạo của thiên tử mỗi ngày một mới mẻ
Hưởng phúc lâu dài.

Chú thích:

1. Chiêu tích: xem chú trên
2. Tập hy: xct
3. Tu minh: tu sửa, chỉnh trang cho đẹp đẽ sáng sủa. Hàn thi ngoại truyện viết: lễ nghĩa tu minh, tắc quân tử hoài chi (lễ nghĩa mà được làm cho rõ ràng thì người quân tử sẽ nhớ đến)
4. Bách độ: trăm việc. Kinh thư thiên Lữ ngao: bất dịch nhĩ mục, bách độ duy trinh (chớ để những điều tai nghe mắt thấy nó sai dịch mình, thì trăm việc làm sẽ đúng đắn cả)
5. Canh tạc: Hoàng Phủ Mật nhà Tấn trong Đế vương thế kỉ viết: nhật xuất nhi tác, nhật nhập nhi tức, tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực (mặt trời mọc thì đi làm, mặt trời lặn thì nghỉ, đào giếng mà uống, cầy ruộng mà ăn). Chỉ cuộc sống điền viên. Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập có câu: “ruộng nhiều quê tổ năm ba thửa, tạc tỉnh canh điền tự tại nhàn”
6. Vô sự: không có việc binh đao.
7. Hoá thành: xct
8. Đinh: xct
9. Thích điện: xct
10. Đông tiệm Tây bị: Kinh Thư thiên Vũ Cống viết: đông tiệm vu hải, tây bị vu lưu sa (phía đông đến bể, phía tây đến bãi cát). Nói về việc vua Vũ trị thuỷ. Đây chỉ lãnh thổ đất nước.
11. Cát Phủ: Kinh thi phần Đại nhã bài Chưng dân viết: Cát Phủ tác tụng, mục như thanh phong (Cát Phủ làm bài tụng, hài hoà như gió mát)
12. Hiến bộc: Liệt Tử thiên Dương Chu viết: “xưa nước Tống có người nông phu mặc áo thô chống qua mùa giá rét. Đến mùa xuân anh ta cày cấy dưới ánh nắng ấm áp, không biết rằng trong thiên hạ còn có nhà cao cửa rộng, gấm vóc lụa là. Anh ta bảo vợ rằng: ánh nắng ấm áp quá, người khác không biết điều ấy, tôi mang điều này dâng vua ta, nhất định sẽ được trọng thưởng đấy.” Đây chỉ tấm lòng chân thật đơn sơ.
13. Yêm: che phủ, bao quát khắp cả, thường làm phó từ trạng ngữ. Thi phần Chu tụng bài Chấp cạnh viết: Tự bỉ Thành, Khang, yêm hữu tứ phương (từ đời Thành, Khang đã cai trị khắp bốn phương). Yêm phủ: vỗ về khắp.
14. Xích huyện: giản xưng của Xích huyện thần châu, chỉ Trung Quốc. Đây chỉ phạm vi trong lãnh thổ nước Việt.
15. Phi hiển, phi thừa: Kinh thư thiên Quân nha: Phi hiển tai! Văn Vương mô. Phi thừa tai! Vũ Vương liệt (rực rỡ thay! Mưu kế Văn Vương. Nối thừa nhé! Võ liệt của Vũ Vương). Phi: vốn là ngữ từ, nghĩa là to lớn, vĩ đại, thường làm phó từ trạng ngữ.
16. Chưng dân: dân chúng, trăm họ. Quốc ngữ phần Chu viết: tư văn Hậu Tắc, khắc phối bỉ thiên, lập ngã chưng dân, mạc phi nhĩ cực (Hậu Tắc suy nghĩ sâu xa, có văn vẻ, có thể sánh với trời, người tập nên chuẩn tắc cho bách tính). Kinh Thi phần Chu tụng bài Tư văn cũng dùng chữ chưng dân.
17. Yên an: yên ổn nhàn dật. Hậu Hán thư phần Thân Đồ Cương truyện: “Quang Vũ thường muốn dong chơi, Cương vẫn lo lắng không yên vì cớ đất Lũng, đất Thục chưa bình ổn). Đào Uyên Minh trong Khuyến nông viết: yên an tự dật, tuế mộ hề kí (an nhàn tự vui, năm cùng tháng tận sống bằng gì?)
18. Nhược: thuận theo. Kinh thư thiên Nghiêu điển: nãi mệnh Hi Hoà, khâm nhược hạo thiên (bèn sai Hi Hòa, thuận theo hạo thiên). Kinh thi phần Đại Nhã bài Chưng dân viết: thiên tử thị nhược, minh mệnh sử phú (thuận theo thiên tử, ???)
19. Duật: trợ từ, thường đứng đầu câu, có thể không cần dịch. Kinh thi phần Đại nhã bài Văn Vương viết: vô niệm nhĩ tổ, duật tu quyết đức (há không nghĩ đến tổ tông ngươ, hãy rèn tu cái đức của ngươi)
20. Phong hoá: phong tục giáo hóa. Tam Quốc chí phần Ngụy đoạn Cao Quý Khanh công kỉ: phù dưỡng lão hưng giáo, tam đại sở dĩ thụ phong hoá thùy bất hủ dã (việc nuôi người già, chấn hưng giáo hóa, ấy là những việc gây dựng phong hóa của thời Tam đại mà đến nay còn chưa mờ phai).
21. Cảnh ngưỡng: tức cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ. Xem chú trên.
22. Kinh doanh: xây dựng. Kinh thi phần Đại nhã bài Linh đài viết: kinh thuỷ linh đài, kinh chi doanh chi (xây đài Thuỷ Linh). Kinh thư thiên Thiệu cáo viết: bốc trạch, quyết kí đắc bốc, tắc kinh doanh (bói quẻ chọn đất ở, đã bốc chọn được rồi thì xây dựng). Sau chuyển nghĩa chỉ việc xây dựng sự nghiệp, Kinh thi phần Tiểu nhã bài Bắc sơn: lữ lực phương cương, kinh doanh tứ phương (sức ta đang dũng mãnh, có thể lo liệu công việc bốn phương)
23. Dịch dịch: vẻ nguy nga lộng lẫy. Kinh thi phần Đại nhã bài Hàn dịch: dịch dịch Lương Sơn, duy Vũ tuần chi (Lương Sơn cao vọi, là nơi vua Vũ đi tuần thú qua). Phần Lỗ tụng bài Bí cung: tân miếu dịch dịch, Hề Tư sở tác (miếu mới nguy nga, do Hề Tư xây dựng)
24. Minh đức: cái đức hoàn bị đầy đủ. Kinh thư thiên Quân Trần viết: chí trị hinh hương, cảm vu thần minh, tất tắc phi hinh, minh đức duy hinh (hương thơm của chính trị, cảm cách đến thần minh. Lúa tắc không thực có mùi thơm, đức độ sáng tỏ mới thực thơm tho). Kinh lễ thiên Đại học: đại học chi đạo, tại minh minh đức (cái phương pháp của cái học lớn là làm sáng tỏ cái đức sáng).
25. Tây giao: nhà học. Tấn thư phần Nho lâm truyện tự: tuy tôn nho khuyến học cức hàng ư luân ngôn, đông tự tây giao vị văn ư huyền tụng (tuy là đã khuyến học sùng nho, nhưng nhà học phía đông nhà học phía tây vẫn chưa nghe thấy tiếng tụng lời thánh giáo).
26. Mao sĩ: những kẻ anh tài, tuấn tú. Kinh thi phần Tiểu nhã bài Phủ điền viết: tự cổ hữu niên, kim thích nam mẫu, hoặc vân hoặc tử, thử tắc nghị nghị, du giới du chỉ, chưng ngã mao sĩ (từ xưa mỗi khi được mùa, đi đến mẫu ruộng ở phía nam, người thì bừa người thì vun gốc mạ, lúa nếp rườm rà tươi tốt, ở ngôi nhà to lớn để nghỉ ngơi, tiến dẫn người tuấn sĩ của ta đến để uý lạo họ). Hào sĩ ở đây chỉ người dân giỏi giang có tài. Chưng: tiến dẫn đến. Đời xưa kẻ sĩ xuất thân từ nghề nông chứ không từ nghề thợ và nghề buôn. Quản Trọng nói rằng: con nhà nông thì hằng làm ruộng ở ngoài đồng mà không thân cận, người nông dân tuấn tú có thể làm quan, ắt đủ đức hạnh để cậy trông.
27. Thành tựu: lập được thành tích. Bia Mạnh úc tu Nghiêu miếu bi viết: hách như ốc giả, lạn nhiên thành tựu (quân tử dung mạo rạng rỡ, thành công hiển hách).
28. Tụng, huyền: tụng tức tụng ngôn: lời tụng đọc kinh Thi, kinh Thư. Kinh thi phần Đại nhã bài Tang nhu: thính ngôn tắc đối, tụng ngôn như tuý (nghe lời giảng rồi thì phải ứng đáp, thấy lời tụng đọc kinh Thi, kinh Thư thì như say). Huyền là huyền tụng: thời cổ trong trường học, khi học thơ thì có nhạc đệm đánh theo để ngâm nên gọi là ca huyền, khi đọc to không phối nhạc thì gọi là tụng, gọi gộp là huyền tụng, phiém chỉ việc học tập, truyền thụ kiến thức.
29. Thần khí: ngôi vua.
30. Ưng: nhận, đảm đương. Kinh thư thiên Vũ Thành viết: đản ưng thiên mệnh, dĩ phủ phương Hạ (chịu mệnh trời vỗ yên trong nước).
31. Văn mệnh: tức văn đức giáo mệnh Kinh thư thiên Đại Vũ mô: viết: văn mệnh phu vu tứ hải, chỉ thừa vu đế (vua Đại Vũ, đáng khen là văn chương và giáo hoá của người khắp ra cả bốn bể).
32. Đản: to lớn rộng khắp, phó từ trạng ngữ. Kinh thư thiên Thang cáo viết: Vương quy tự khắc Hạ, chí vu Bạc, đản cáo vạn phương (vương quay về sau khi chinh phạt xong nước Hạ, đến đất Bạc, bá cáo khắp cho nhân dân muôn nơi biết).
33. Thanh giáo: tiếng tăm oai vũ và giáo hóa. Kinh thư thiên Vũ cống: đông tiệm ư hải, tây bị ư lưu sa, sóc nam kị, thanh giáo hất ư tứ hải (đông đến biến, tây đến sa mạc, nam bắc đều nghe đến thanh giáo của vua Vũ, đến cả bốn bể).
34. Phấn trị sức bình: vốn mượn từ câu: phấn sức thái bình (điểm tô thái bình). Cả câu nghĩa là: tô điểm thái bình, thịnh trị.
35. Nghi văn: pháp độ tiêu chuẩn. Hoài Nam Tử thiên Tu vụ viết: thiết nghi lập độ, khả dĩ vi phép tắc (dựng tễ nghi, lập tiêu chuẩn để làm phép tắc).
36. Lục chính: chế độ thời Chu, từ trăm dặm ở ngoài vào đến kinh thành chia làm lục khanh, do quan tư đồ cai quản. Nên còn gọi là lục khanh
37. Linh lộ vị hi: ý lấy từ bài Trạm lộ, tên bài thơ trong Kinh thi phần Tiểu nhã, viết về việc các vua chư hầu được thiên tử thiết yến chiêu đãi. Trong bài có câu: trạm trạm lộ tư, phỉ dương bất hy yêm yêm dạ ẩm, bất quy (sượng lộ đầm đìa, nếu không có mặt trời thì không khô được, yến ẩm trong đêm vui với nhau, nếu không say mèm thì không được về).
38. Giê giê: tiếng gà kêu. Kinh thi phần Trịnh phong bài Phong vũ: phong vũ thê thê, kê minh giê giê (gió mưa buồn thảm, tiếng gà gáy dài).
39. Đối việt: phối xứng. Kinh thi phần Chu tụng bài Thanh miếu có câu: tể tể đa sĩ, bỉnh văn chi đức, đối việt tại thiên, tuấn bôn tẩu tại miếu (đám sĩ nhân dông đúc, ???phối xứng với trời, dong ngựa đến miếu).
40. Vân hương: loài cây thân gỗ, lá có mùi rất thơm. Dùng để trị mối mọt.
41. Tương trật: phong bao màu vàng để đựng sách, sau cũng chỉ sách vở.
42. Nha tiêm: thẻ làm bằng ngà, dùng để đánh dấu sách.
43. áo chỉ: cũng như yếu chỉ, nội dung ý nghĩa quan trọng.
44. Bắc thần: sao bắc cực. Luận ngữ thiên Vi chính: vi chính dĩ đức, thí như bắc thần, cư kì sở nhi chúng tinh củng chi (đem cái đức ra để thực hiện chính trị, ví như sao bắc cực, ở chỗ của nó mà các sao khác đều chầu về)
45. Nhật tân: mỗi ngày một mới. Lấy từ câu: cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân trong sách Lễ kí thiên Đại học. Kinh dịch phần Hệ từ thượng: phú hữu chi vị đại nghiệp, nhật tân chi vị thịnh đức (có của cải gọi là nghiệp lớn, mỗi ngày một đổi mới gọi là đức thịnh vậy).

Từ nguyên của "chằm" và "trải"

Bài viết tham gia hội thảo kỷ niệm 1 năm ngày mất Gs Nguyễn Tài Cẩn





KHẢO VỀ CHẰM VÀ TRẢI TRONG TIẾNG VIỆT CỔ

QUA “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ” CỦA TRẦN NHÂN TÔNG



Nguyễn Hùng Vĩ và Trần Trọng Dương




Bắt đầu bằng việc ngồi đọc lại tác phẩm Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông. Trong tác phẩm này, ở Hội năm, câu 11 (câu 63 tính theo toàn bài) ghi:




GS Đào Duy Anh trong cuốn Chữ Nôm- nguồn gốc- cấu tạo- diễn biến phiên:

-Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc kim hoặc chỉ;

Cơm cùng áo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu xoa.

Trăn trở với cách phiên đó, GS Hoàng Xuân Hãn phiên lại:

-Áo miển (mliễn) chăn, đầm ấm qua mùa, hoặc chằm hoặc xể.

Và dường như chưa thật yên tâm với cách đọc của mình, trong phần Đại ý và lược chú, GS Hoàng Xuân Hãn viết: “Áo thì mặc chằm vá, rách xể cũng chẳng hề, quí hồ ấm (hai chữ Châm 針 và Trĩ 雉 chắc đều chép chữ nôm theo phép mượn âm; nhưng đọc thế nào thì không chắc. CN đọc kim chỉ. Theo âm thì đọc châm trễ là gần nhất, nhưng tứ không hợp. Tôi đọc chằm xể, hợp hơn, tuy rằng những âm ấy ngày nay có thể viết bằng chữ Nho khác. Cũng có thể âm xể xưa là xlể)...” [tr.1118].

Rõ ràng mặc dù chủ trương đọc là chằm- xể nhưng GS cũng không chắc là đã đọc đúng. Vả lại, về nghĩa, cụ hiểu chằm là “chằm vá”, động tác dùng dây, kim luồn để nối kết các tấm vật liệu lại với nhau; còn xể là “rách xể”, lưu tích còn trong từ chổi xể.

Những băn khoăn của các nhà cựu học khiến chúng tôi phải tiếp tục suy nghĩ. Sau quá trình nghiên cứu, khảo sát các ngữ liệu cổ, chúng mạnh dạn đề xuất cách đọc hai câu phú trên như sau:

-Áo miễn chăn, đầm ấm qua mùa, hoặc chằm (chầm) hoặc trải.

Dưới đây là những giải thích của chúng tôi qua sự khảo sát từ các từ điển cổ và các ngữ liệu cổ được ghi bằng chữ Nôm. Phương pháp làm việc của chúng tôi là: dựa trên cách đọc Hán Việt của thanh phù ghi âm trong chữ Nôm, từ đó đưa ra các khả năng đoán định về âm đọc; khả năng của âm đọc được củng cố trên các tư liệu từ điển cổ từ cuối thế kỷ XIX về trước. Khi chữ Nôm có dấu vết bị sửa đổi do dọn bản của các đời sau, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tái lập ngữ âm tiếng Việt đồng thời soi chiếu với các cứ liệu chữ Nôm cổ để tìm ra từ nguyên cũng như lịch sử phát triển, biến đổi ngữ âm- ngữ nghĩa của ngữ tố đang khảo sát.

1. Khảo về chữ CHẰM

GS Hoàng Xuân Hãn ghi ngờ cách phiên “hoặc kim hoặc chỉ” của Gs Đào hẳn có lý của ông. Theo phép đối trong một liên phú, câu dưới ghi “dầu bạc dầu xoa” (cấu trúc: dầu + vị ngữ tính từ; dầu + vị ngữ tính từ), thì câu trên có cấu trúc (hoặc + danh từ; hoặc + danh từ) là cần phải cân nhắc lại. Cách phiên của GS Hoàng “hoặc chằm hoặc xể” với “chằm” và “xể” đều là các tính từ hoặc động từ có chức năng làm vị ngữ, theo chúng tôi là khá hữu lý. Vấn đề cần thảo luận tiếp là cách phiên chuyển, hơn nữa là cách hiểu về ngữ tố tiếng Việt cổ đang xét. Bởi lẽ, như ta biết, Cư trần lạc đạo phú có thể coi là một trong vài ba ngữ liệu sớm nhất hiện nay còn giữ được thuộc về điểm mút đầu của giai đoạn tiếng Việt cổ (thế kỷ XIII-XVI).

Chữ Châm針, chúng tôi cũng đọc là chằm (hoặc chầm) nhưng hiểu nghĩa khác đi so với giáo sư Hoàng Xuân Hãn, chúng tôi hiểu chằm là quàng, choàng, ôm lấy...

Đọc như trên, câu phú được hiểu lọn ý hơn với nghĩa nhàn nhã với cuộc sống đạm bạc của một người tu hành hòa mình với bụi trần mà vẫn thung dung lạc đạo: Để đầm ấm cho qua mùa rét thì áo hoặc chăn cái gì cũng xong, hoặc là quàng (áo) hoặc là trải (chăn), tùy lúc, không câu nệ.

Chúng ta thấy một số từ điển từ thế kỉ XIX về trước ghi nhận chữ chằm với nghĩa là quàng, choàng, ôm lấy. Cụ thể như trình bày dưới đây.

1772 – 1773, từ điển Dictionarium Anamitico Latinum (Tự vị Annam Latinh) của Piere Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu) còn ghi mục từ Chằm lấy với chữ扌針 và với nghĩa Ôm chặt [theo Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên tb. 1999, tr. 67].

1838, từ điển mang tên La Tinh như trên của Aj. L. Taberd (tên Hán Việt là Nam Việt dương hiệp tự vị) cũng có mục từ như trên, được viết bằng chữ Nôm扌針 [tr.54].

1884, Việt Pháp từ điển của Trương Vĩnh Kí có mục từ Chằm và chú tiếng Pháp là Tenir fortement.

1895, Đại Nam quấc âm tự vị của Huình – Tịnh Paulus Của cũng cho ta ngữ liệu “Chằm lấy. Giữ lấy, chụp lấy. Thấy mặt thì chằm lấy mà mắng” [tr.118]. Chữ Chằm được viết ở dạng 扌針.

Như vậy, trong quá khứ, chữ Chằm với nghĩa “ôm chặt, ôm quàng lấy” đang là một động từ hoạt động độc lập. Nghĩa của nó là rất gần gũi với các chữ quàng, choàng. Ngày nay với tư cách là một động từ như vậy, nó hầu như đã rụng khỏi ngữ dụng phổ thông, chỉ còn lại trong các kết cấu ôm chằm / ôm chầm, chằm vặp / chầm vập, ôm chằm chặp. Ta có thể giải nghĩa được từ chầm trong ôm chầm, vốn là một kết cấu đẳng lập hai động từ gần nghĩa với nhau: Ôm và Chầm. Nhưng chầm dần dần mờ nghĩa nên được hiểu như là một trạng thái bổ trợ cho Ôm và được hiểu như từ ghép chính phụ. Trong tiếng Tày ta có tiếng Chổm là quàng, ví dụ: chổm pạ slửa khửn bá mưà (choàng áo lên vai) [Hoàng Văn Ma 1984: tr.377]. tiếng Dăm có nghĩa là ôm, ví dụ: dăm chăp ăn thù nâng (ôm một mối thù) [Hoàng Văn Ma 1984: 356]. Có thể thấy chằm là một từ cổ thuộc vốn từ vựng của tiếng Việt cổ (tk XIII-XVI). Chữ này sẽ thuộc loại từ cổ thứ ba theo cách phân loại của Vương Lộc [2001, lời nói đầu tr.I]. Những từ cùng nhóm này như: han trong hỏi han, chường trong chán chường, tác trong tuổi tác, tói trong đòi tói (dây xích) và lòi tói (dây dợ),… Từ chằm không còn hoạt động một cách độc lập trong tiếng Việt Trung đại (XVII-XIX) và tiếng Việt hiện đại nữa.

Nếu nghiên cứu của chúng tôi có thể chấp nhận được, thì sẽ đem đến cho kho tàng từ cổ tiếng Việt thêm một đơn vị thú vị nữa, giải tỏa những dùng dằng mà GS Đào Duy Anh và GS Hoàng Xuân Hãn đã đề cập tới. Không những thế, có thể bổ sung cho các từ điển từ cổ và từ điển chữ Nôm một mục từ mới chưa từng xuất hiện trong bất cứ một công trình nào trước đây.



2. Khảo về chữ TRẢI

Chữ Trĩ雉đọc là trải theo kiểu mượn âm là hoàn toàn có thể xảy ra trên lý thuyết và thực tế. Mối quan hệ giữa i- ai là một mốt quan hệ đã từng được biết đến, ví dụ qua đối ứng giữa âm Hán Việt đời Đường và âm Hán Việt phi Đường: 疑nghi- ngại, 義nghĩ- ngãi,眉 mi- mày, 胝 tri- chai/ trai (cái chai tay),脂 chi- chài (mỡ chài), ,厘 li- lai (một li một lai), 理 lí- lái (lí tài- lái buôn),… Với một âm đọc phiên chuyển sang tiếng Việt hiện nay thì khả năng đọc trải là có thể chấp nhận được. Trải với tư cách động từ, có nghĩa là “trải ra, giãi ra”. Sự tương ứng của mô hình âm trong chữ Nôm, dùng thanh phù Hán có thủy âm TR- để ghi chính xác thủy âm TR- khiến chúng tôi nghĩ rằng đây có thể là một chữ Nôm do đời sau lọt vào trong quá trình dọn bản từ thiền sư Chân Nguyên (tk XVII), rồi được bảo lưu trong bản của sư Thanh Hanh (1932). Điều này chứng tỏ việc dọn bản cho chữ Nôm ở đây được thực hiện sau khi quá trình chuyển đổi của các thủy âm kép đã hoàn thành, tức quãng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Chính thiền sư Chân Nguyên cũng đã viết trong cuốn Yên Tử sơn Trần Triều Thiền tông bản hạnh rằng:

“Dược Am gió mát bóng cây

Dọn Thiền tông lại để nay san truyền”[1]

Sở dĩ chúng tôi đi đến nhận định trên đây, bởi những kết quả của ngành ngữ âm học lịch sử đã soi sáng thêm rất nhiều cho giả thuyết này. Từ điển Việt Bồ La đã có phương án ghi khá chính xác cho ngữ tố đang xét. Từ điển này ghi như sau: “blải: trải, giải nghĩa. Léy áo blải lót đàng: lấy áo trải trên đường đi” [tb1994: 39]. Đến đây ta có thể tạm thời đi đến nhận định rằng, blải thế kỷ XVII sẽ cho âm giải ở Miền Bắc và trải ở Miền Trung. Hơn nữa có thể khẳng định lại lần nữa rằng trĩ không phải là chữ Nôm đời Trần mà là chữ Nôm đời Lê Trung Hưng trong quá trình dọn bản, dùng để nghi ngữ tố trải từ thế kỷ XVIII trở lại đây.

Để hiểu thêm về từ này, chúng tôi tiến hành khảo sát các ngữ cảnh có từ thế kỷ XVII trở về trước qua một số tư liệu chữ Nôm. Sách Truyền kỷ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú ghi: Ngủ thì áng cỏ trải làm nệm chiếu, khát thì nước suối dâng làm rượu ngọt (Q.III 67b), bèn khiến trải chiếu bên Đông bên Tây, sánh ngồi luận sự văn (Q.IV 40b), chữ trải đều được ghi bằng . Có thể thấy, chữ Nôm trong Truyền kỳ mạn lục là một chữ Nôm hình thanh, nhưng vẫn có thanh phù lại 吏dùng để ghi phần âm lỏng và khuôn vần của ngữ tố đang xét. Dù cách ghi có khiếm khuyết, nhưng dựa vào cứ liệu của Từ điển Việt Bồ La, ta vẫn có thể tái lập là *blai3. Như thế mô hình âm của chữ Nôm sẽ là L-(BL-), dùng L- để ghi BL-. Theo các kết quả nghiên cứu của Vương Lộc qua An Nam dịch ngữ, từ thế kỷ XV-XVI về trước, ngữ tố này có thể có hai biến thể ngữ âm là *blai3và *tlai3. Quá trình diễn biến ngữ âm, theo chúng tôi có thể trình bày như sau:

*blai3> hòa đúc> trải (Trung)

*blai3> hòa đúc> giải (Bắc)

*blai3> rụng âm [b] > rải/ rãi.

*tlai3> rụng âm lỏng> tãi/ toãi.

Thế kỷ XII, ngữ tố đang xét xuất hiện trong câu sau: mẹ nằm ngày sinh con, năm tạng đều - ra (13a3), dịch từ câu Hán văn 慈母生居日,五臟揔開張. Từ điển Chữ Nôm của Viện NC Hán Nôm cho tự dạng Nôm là (tr.1142). Hoàng Thị Ngọ cho rằng chữ Nôm đang xét là阿 賴 [tr.58] và nhận định đây là một tổ hợp phụ âm có âm tiền tắc thanh hầu hóa. Chúng tôi theo ý kiến này và tái lập là *?laj3. Tuy nhiên, chúng tôi xin đính chính lại một điểm, tự dạng Nôm chính xác là , vi tính hóa là 阿懶 a lãn. Chữ (cự巨 + lãn懶) thì chữ cự là chữ viết bằng bút lông (chứ không phải nét khắcvốn có của bản khắc), nét chữ mềm, yếu và lạc hẳn phong cách so với toàn bộ văn bản, có lẽ do người đời sau thêm vào. Từ điển chữ Nôm của Viện NC Hán Nôm thì coi 阿 là một thành tố chưa thể lý giải, bởi nó nằm ở vị trí cuối cùng của dòng trước, cho nên mặc nhận chữ (nằm ở đầu dòng) là đúng.

Tuy nhiên, dấu cự lại là một chứng tích khá xưa do người đời sau thêm vào. Nó phản ảnh một tự dạng cổ trước thế kỷ XVII. Có thể thấy tự dạng này trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi dùng để ghi ngữ tố trái. (cự巨 + lãn懶), âm tái lập: *klai5 xuất hiện trong các câu muốn ăn *blai5 dưỡng nên cây, ai học thì hay mựa lệ chầy (Bảo kính cảnh giới 137.1), (ThuËt høng 64.4)[2]. Như thế, ta có thể có chữ Nôm cổ có trước và xuất hiện sau阿懶. Quá trình diễn biến chữ Nôm có thể như sau:

阿懶 (XII (XV)> 惐(XVII)>雉(XVIII).

Các biến thể ngữ âm đã tái lập từ thế kỷ XVII về trước có thể là, *?laj3, *klai3, *tlai3, *plai3 hoặc *blai3. Các biến thể ngữ âm hậu kỳ là: trải, giải, giãi, rải, rãi, tãi, toãi.

Ít nhiều, ta có thể thấy rằng, cổ hơn雉. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm là chữ惐 là một tự dạng phổ dụng hơn nhiều so với 雉, có thể thấy chữ này xuất hiện trong hàng loạt các tác phẩm Nôm thế kỷ XVIII-XIX và đầu thế kỷ XX nữa, như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, thơ Nôm Nguyễn Khuyến,…. Lúc ấy, chỉ tồn tại như là một lưu tích của chữ Nôm cổ, chứ không mang giá trị ghi âm như trước nữa.

Về nghĩa, thì các ngữ cảnh đã xét ở trên cho ta nghĩa cơ bản của ngữ tố trải, trỏ một vật được rãi ra, tãi ra trên một mặt phẳng, trên một không gian. Như quy luật chung của ngôn ngữ, nghĩa liên quan đến không gian sẽ được chuyển sang nghĩa liên quan đến thời gian. Đến đây, chúng tôi cho rằng, trải trong các từ và các ngữ trải qua, từng trải, trải làm, trải giữ, trải đời, bươn trải,… là nghĩa dẫn thân của chữ giải/ trải/ rải/ tãi đang xét. Khảo các ngữ liệu cổ, chúng tôi bắt gặp khá nhiều ngữ cảnh có nghĩa này. Cụ thể như sau: NhËt nguyÖt soi ®ßi chèn hiÖn, §«ng hÌ tr¶i ®· x­a hay (Quốc âm thi tập, TrÇn t×nh 45.6), được ghi bằng (thanh phù: lại), âm tái lập: *tlai3 > trải/ giải (-qua, kinh lịch qua). AR ghi một từ đồng âm gần nghĩa là blải (trải, giải nghĩa) [1994: 39]. Gaston Nhẫn tái lập âm *plải [1967: 50]. Chữ trải trong QATT của Nguyễn Trãi mang nghĩa “trôi qua” thuộc loại động từ bất cập vật. Bạch Vân Am thi tập thế kỷ XVI của Nguyễn Bỉnh Khiêm ghi trong câu trải gian nguy đã mấy phen (tr.3b), chữ trải mang nghĩa “từng kinh qua”, lưu tích còn trong từ nếm trải, từng trải. Hai nghĩa trên còn thấy xuất hiện trong một số ngữ cảnh sau. Truyền kỳ mạn lục thế kỷ XVI-XVII có câu trải xuân thu hai khoa thi (QI 52b), ở quan trải một tháng (QIII 4b), Trải khổ từng nghèo (QVI 36b). Truyện Kiều có câu trải bao thỏ lặn ác tà (26). Lục Vân Tiên có câu trải bao dấu thỏ đường dê (15). Nguyễn Khuyến có câu ăn chơi đã trải chết chôn chưa hề (14a). Thiên Nam ngữ lục thế kỷ XVII ghi trải xem lịch đại đế vương (tr.130a), ở ngữ cảnh này trải mang nghĩa là “khắp”, là một trạng từ bổ nghĩa cho động từ vị ngữ. Sô Nghiêu đối thoại thế kỷ XVIII ghi ngắm chơi đã trải miền thôn dã (5a), chữ trải ở đây là một động từ nghĩa là “đi hết, đi khắp”.

Với âm giãi, ta có một số nghĩa sau. Nghĩa thứ nhất là trỏ (ánh sáng) rải ra trên một bề mặt. Ví dụ QATT của Nguyễn Trãi có những câu như: Quỹ Đông giãi nguyệt in câu (Ngôn chí 14.4), cửa song giãi xâm hơi nắng (Ngôn chí 21.3), Hang thỏ chìm tăm hải nhược, Nhà giao giãi bóng thiềm cung (Thủy thiên nhất sắc 213.4). Nghĩa dẫn thân là “phơi ra” trong câu mới hay thế khốn anh hùng giãi thây (Thiên Nam ngữ lục,104a). Nghĩa bóng dẫn thân cuối cùng là “phơi bày tâm can” như giãi thực niềm đan trẫm được hay (Hồng Đức quốc âm thi tập 66b), rỉ tai nàng mới giãi bày thấp cao (Kiều 19a), lưu tích còn trong từ giãi bày, giãi lời. Chữ giãi trong các ngữ cảnh trên đều được ghi bằng chữ Nôm có thanh phù 豸trĩ /trãi. Điều này càng củng cố cho cách đọc trải cho ngữ liệu Nôm trong Cư trần lạc đạo đã bàn ở trên.

Tóm lại, qua khảo sát các cứ liệu chữ Nôm và ngữ liệu tiếng Việt cổ từ thế kỷ XIX trở về trước, chúng tôi đề xuất cách đọc chằm và trải cho câu phú của vua Trần Nhân Tông: Áo miễn chăn, đầm ấm qua mùa, hoặc chằm (chầm) hoặc trải. Đây là cách phiên chuyển từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, từ tiếng Việt cổ sang tiếng Việt hiện đại. Còn nếu thật sự chặt chẽ, phải tiến hành phiên sang tiếng Việt cổ- với một hệ thống các ký hiệu chữ Quốc ngữ riêng biệt- đặc thù, nhất là với những ngữ tố có tổ hợp phụ âm đầu như mliễn hay klải. Tuy nhiên, vấn đề nêu ra là khá phức tạp, cần phải thảo luận chi tiết trong một dịp khác.



Hà Nội 10-13/12/2011







Tư liệu tham khảo:

A. de. Rhodes 1651. Dictionarivm Annnamiticivm Lvsitanvm et Latinvm ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in Lucem Editum ab Alexandro de Rhodes e Societati Jesu, Eiusdemque Sacra Congregationis Missionario Apostolico. - Romae : typis & sumptibus eiusdem Sacr. Congreg. p. 633., tb.1994. Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt và Đỗ Quang Chính phiên dịch, Nxb. Khoa học Xã hội.
Cư trần lạc đạo. Thanh Hanh trùng san 1932. Bản in ván chùa Vĩnh Nghiêm do tác giả thực hiện năm 1999.
Đào Duy Anh – Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo và diễn biến. Nxb KHXH. Hà Nội.
Gaston Nhẫn. 1967. Etude du consonantisme du Quốc âm thi tập (Nghiên cứu hệ thống phụ âm đầu của Quốc âm thi tập, Luận án Tiến sĩ đệ tam cấp, 203 trang, hiện lưu tại Thư viện I. N. A. C. O. - Pháp).
Hoàng Thị Ngọ (khảo cứu, phiên âm, chú giải). 2009. Thiền tông bản hạnh. Nxb Văn học. Tp Hồ Chí Minh.
Hoàng Xuân Hãn. Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần Lê… Trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập 3. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo. 1984. Từ điển Việt- Tày- Nùng. Nxb KHXH. Hà Nội.
Huình Tịnh Paulus Của, (1895-1896), “大 南 國 音 字 彙” Đại Nam quấc âm tự vị, SaiGon Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4, rue d’Adran, 4.; Nxb.Trẻ.1998 (theo ấn bản 1895-1896).
Khuyết danh. XII. Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Bản Trịnh Quán in <1730. Pierre Pegneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu), Dictionarium Anamitico Latinum 1772-1772 (Tự vị An nam La tinh) bản chép tay, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu, Nxb.Trẻ. (tb.1999). L.J. Taberd, 1838, Dictionarium Anamitico- Latinum (南越洋合字彙 Nam Việt Dương hiệp tự vị), Frederrichnagori Vulgo Serampore. Thiều Chửu. 1997. Hán Việt tự điển. Nxb Tp Hồ Chí Minh. Trương Vĩnh Ký, P.J.-B., 1884, Petit dictionnaire français-Annamite, Saigon, Imprimerie de la Mission à Tân Định. Vương Lộc. 2001. Từ điển từ cổ. Nxb. Đà Nẵng. Vệ Thạch Đào Duy Anh. 1932. Từ điển Hán Việt. (Hãn Mạn Tử - Giao Tiều hiệu đính) TIENG DAN. HUE. (tb 2001) Nxb KHXH. Hà Nội. -------------------------------------------------------------------------------- [1] Quá trình truyền bản và “dọn bản”, Hoàng Thị Ngọ đã viết như sau: “Lúc đầu Thiền tông bản hạnh vốn chỉ có bốn bài, trong bốn bài này thì bài đầu do thiền sư Chân Nguyên sáng tác còn ba bài phú tiếp theo là do thiền sư sưu tập những trước tác của các vị sư tổ thứ nhất và thứ ba thiền phái Trúc Lâm Yên Tử để làm thành một cuốn sách. Cuốn sách đầu tiên này phải được hoàn thành khi thiền sư Chân Nguyên còn sống, tức là vào khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Như vậy, rất nhiều khả năng chính thiền sư Chân Nguyên là người đầu tiên đã biên soạn lại hay nói như người xưa là "dọn" lại văn bản Nôm thời Trần và cho khắc in cùng với bài kể hạnh của mình lấy nhan đề sách là Thiền tông bản hạnh để lưu truyền lại. Sở dĩ nói là "dọn" lại hay biên soạn lại văn bản chữ Nôm thời Trần vì cả 2 văn bản hiện còn đều không phải là chữ Nôm thời Trần mà chỉ còn lưu lại dấu vết của văn Nôm và chữ Nôm thời Trần mà thôi. Bản in càng sớm thì dấu vết chữ Nôm thời Trần còn càng nhiều và ngược lại, bởi vậy mà chữ Nôm trong 2 bản khắc in đều mang những đặc điểm của chữ Nôm ở thời điểm khắc in văn bản.” [tr.26-27]. [2] Ngoài ra, QATT còn dùng tự dạng khác, để ghi một biến thể ngữ âm khác. (ba巴+ l¹i賴), âm tái lập: *blai5. . Như vậy ta có hai biến thể ngữ âm cùng tồn tại trong một văn bản là: *blai5/ *klai5> trái (cây trái). An Nam dịch ngữ ghi: 菓園:文拜quả viên: vườn trái, âm tái lập là *blai5. Từ điển Việt Bồ La tuy không có mục từ trái trỏ hoa quả, nhưng có ghi nhận từ đồng âm trái (với nghĩa phía trái, mặt trái), như: tlái áo, tay tlái, tlái mlẽ, nói tlái, tlái mặt thuốc, lúa tlái. [A. de Rhodes 1651, tb 1994: 230]. Xuất hiện tại các vị trí: co que thay bấy ruột ốc, khúc khuỷu làm chi *blai5 hòe (Trần tình 44.4).

Từ nguyên của "thiết tha", "thướt tha"?



‘THIẾT THA’ hay ‘THƯỚT THA’?

Trần Trọng Dương
đã đăng: “Thiết tha” hay “thướt tha”? Thông báo Hán Nôm học. 2007. Nxb KHXH. Hà Nội.


Trong nhiều năm qua, các nhà nghiên cứu đang tiến hành đi tìm nguyên tác Truyện Kiều để “tiến tới những bản phiên âm thể hiện được nguyên dạng của tác phẩm về âm đọc, ngữ nghĩa và ý đồ sáng tác của tác giả, từ đó mà chú giải, khảo luận hướng dẫn người đọc hiểu đúng các bản phiên âm hiện hành.” [Nguyễn Tài Cẩn 2004:375]. Có hai xu hướng đi tìm nguyên tác Truyện Kiều chủ yếu sau: 1.Xu hướng khai thác/ phục nguyên từ ngữ cổ tiếng Việt; 2.Xu hướng so sánh các bản Kiều Nôm cổ, thống kê các chữ cùng xuất hiện trong nhiều văn bản Nôm cổ. Đại diện cho xu hướng thứ hai là cuốn Tư liệu Truyện Kiều-từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn do nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học ấn hành năm 2004. Theo xu hướng thứ nhất là một số bài viết của các học giả trong và ngoài nước như Nguyễn Tài Cẩn, An Chi, Đào Thái Tôn, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Bảo, Nguyễn Tuấn Cường…

Gần đây, chúng tôi cũng đã công bố hai bài viết về vấn đề từ cổ trong Truyện Kiều qua trường hợp chữ THƠ RƠ. Hai bài viết trên đều dùng phương pháp tìm các khả năng biến âm của thanh phù để tìm ra âm đọc của chữ thông qua tra cứu từ vựng ở các bộ từ điển cổ. Phương pháp này có ưu thế ở chỗ: nó có thể giúp người đọc khảo sát hầu như toàn bộ các khả năng đọc có thể xảy ra (trên lý thuyết), và kiểm chứng các khả năng ấy thông qua sự ghi nhận của từ điển. Ví như trường hợp của chữ THƠ RƠ, từ trước đến nay từ này vẫn được phiên là Lơ thơ hay Tha la. Từ việc khảo sát các tự dạng Nôm, chúng tôi đưa ra 1456 khả năng đọc của mã chữ và kiểm tra các khả năng ấy qua tra cứu các từ điển cổ. Kết quả là chúng tôi chứng minh được rằng Tha la là cách phiên sai lầm theo mặt chữ bắt đầu từ từ điển Génibrel và Tha la không hề xuất hiện trong bất cứ một cuốn từ điển nào trước hay cùng thời với nó; Lơ thơ với nghĩa “rủ xuống” cũng không hề xuất hiện trong bất cứ một cuốn từ điển cổ nào, Lơ thơ là một từ mới xuất hiện vào quãng đầu thế kỷ XX (1931), và Thơ rơ hay Rơ thơ là cách đọc cổ của từ lơ thơ qua sự ghi nhận một cách có hệ thống của các từ điển từ A. de Rhodes, Taberd, Bỉ Nhu đến Huình Tịnh Của.

Trong bài viết này, chúng tôi cũng thử phục nguyên một từ cổ thông qua phương pháp trên. Đó là các trường hợp Thướt tha.

Thướt tha là từ xuất hiện hai lần trong Truyện Kiều ở các vị trí câu: Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha, 170; Dưới đào dường có dáng người thướt tha, 290. Trước tiên, chúng tôi khảo sát tự dạng Nôm của chữ này qua một số bản Nôm cổ. Kết quả như sau:




Qua 12 bản Nôm và Quốc ngữ cổ ta thấy rằng: tại vị trí câu 170 có 4 dị bản, trong đó thướt tha切 他 xuất hiện 2 lần, La tha羅他 xuất hiện 2 lần, Đã ra xuất hiện 2 lần, còn lại Tha la 他 羅xuất hiện 6 lần tại vị trí câu 290 chỉ có độc bản Thướt tha 切 他. Như biện luận của chúng tôi ở hai bài viết trước thì đã ra 乑 歮 là cách viết sai của他 羅Thơ rơ. Thướt tha切 他 chỉ xuất hiện hai lần (so với 6 lần của Tha la 他 羅). Chúng tôi tạm đưa ra khả năng rằng: Thướt tha切 他 cũng là cách viết sai khác của 羅他rơ thơ. Và như vậy, tại vị trí câu 170 chỉ có thể đọc là: Bên cầu tơ liễu bóng chiều THƠ RƠ[1]/ RƠ THƠ [xem Trần Trọng Dương 2006a, 2006b].

Trở lại với vị trí 290, chúng tôi thấy việc xuất hiện các mã chữ Nôm và các bản phiên âm của câu này khá thống nhất. Với sự khảo sát của mình, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn liệt câu này vào loại nguyên bản do chính Nguyễn Du viết vì không hề có dị bản. Ở đây, ta không còn phải biện luận gì về tự dạng của chữ Nôm cả. Vấn đề là ở âm đọc. Chữ này vốn âm Hán Việt gồm có: 切đọc là thiết và 他đọc là tha. Khâu tiếp theo, chúng tôi thử kiểm tra các khả năng biến âm của hai âm này. Cụ thể như bảng dưới đây:

Bảng: các khả năng biến âm của THIẾT







Các khả năng đọc của Thiết = các khả năng biến âm của Th (10) x các khả năng biến âm của iết (11) = 110.

Các khả năng đọc của Tha = các khả năng biến âm của Th (10) x các khả năng biến âm của a (07) = 70.






Các khả năng đọc của Thiết tha = Các khả năng đọc của Thiết x Các khả năng đọc của Tha = 110 x 70 = 7700.

Để kiểm tra xem các khả năng đọc trên có xảy ra trên thực tế hay không, chúng tôi tiến hành tra cứu thông qua các bộ từ điển cổ. Kết quả là: âm Thướt tha và các âm khác không hề được ghi nhận trong bất cứ từ điển cổ nào. Từ này xuất hiện lần đầu trong Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức: “Thướt tha. Trỏ bộ dài lê thê.” [1931:588]. Tiếp đó là đến G. Hue: “Gracieux, svelte. Thướt tha. Tha thướt” [1044]. Đào Văn Tập: “Thướt tha. Chỉ dáng dài mà uyển chuyển” [612]. Từ điển của Viện Ngôn ngữ học: “Có dáng cao rủ dài xuống, chuyển động một cách mềm mại uyển chuyển.” [945]. Từ điển truyện Kiều: “THƯỚT THA (2): hình dung vật gì dài rủ xuống có vẻ kéo lê thê. Thượt là trong dài thượt. Về cấu tạo từ. xem Dần dà. Td. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha, 170; Dưới đào dường có dáng người thướt tha, 290” [471].

Trong khi đó, âm Thiết tha lại được ghi nhận khá đều đặn bắt đầu từ từ điển của Bỉ Nhu: “Thiết tha切 磋 .cn. ráo riết, lắm, nhiều lắm.” [466], đến Taberd: “Thiết tha切 磋 . Vehementer. Rất, kịch liệt.”[495] và cuối cùng là Huình Tịnh Paulus Của: “Thiết tha. lắm lắm, bức lắm, ngặt lắm, cần kíp lắm.”[1010]. Tự điển Chữ Nôm ghi: “khẩn khoản, da diết, Hết mức, ráo riết.” [2006:1091]. Từ điển tiếng Huế của Bùi Minh Đức ghi: “thiết tha để ý đến vì thương yêu (già rồi, tui không còn thiết tha chi nữa. “đi hay ở vẫn thiết tha với Huế, vẫn bao lần nghe Huế nhói trong tim”- thơ Tô Kiều Ngân). Nghĩa xưa là đau đớn xót xa hoặc mức độ cao (đau đớn thiết tha, giận thiết tha). Từ cổ.P.Của.” [2004:866] Từ điển này không thấy ghi nhận chữ “thướt tha”.

Như vậy, theo sự ghi nhận của các từ điển trên, từ thiết tha là trạng từ hoặc tính từ. Để khảo sát sự hoạt động của từ này như thế nào, chúng tôi tạm khảo sát một số văn cảnh trong các văn bản cổ.

1.Thiết tha là trạng từ chỉ mức độ trong các câu: “xú phụ: vợ xấu thiết tha” trong Chỉ nam ngọc âm (tr.7b), “nghe chàng năn nỉ thiết tha” trong Phan trần (tr.69a). 2.Thiết tha là tính từ trong các câu “cảnh buồn người thiết tha lòng” trong Chinh phụ ngâm (16a), “Thiết tha ban tối khoe khoang nửa ngày” trong Nhị độ mai (tr.17b), “tiếng quạ bay kêu giọng thiết tha” trong Vị thành giai cú tập biên (tr.18a). Nếu là một trạng từ, thiết tha thường đứng sau tính từ vị ngữ, hay động từ vị ngữ. Nếu là một tính từ, từ này thường làm vị ngữ hay làm định ngữ cho danh từ.

Chữ thiết tha trong câu 290 “dưới đào dường có bóng người thiết tha” nên chăng là một tính từ. Tính từ vị ngữ này làm khu biệt và xác định tính chất, đặc điểm của danh từ “bóng người” đứng trước nó. Vậy nét nghĩa của chữ thiết tha ở đây là gì? Theo chúng tôi, đây có lẽ là một tính từ chỉ sự di chuyển nhanh, gấp, thấp thoáng, ẩn hiện. Với nét nghĩa như thế nó sẽ hô ứng với chữ “dường thấy” hết sức mong manh ở trên. Vì đây là đoạn tả tâm trạng chàng Kim Trọng lúc lân la chuyển đến làm hàng xóm với Vương gia, để “tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông”, nhưng “tấc gang động tỏa nguyên phong, tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra”. Thế rồi, một buổi thấy dáng kiều thấp thoáng, “buông cầm xốc áo vội ra, hương còn thơm nức người đà vắng tanh”, chỉ có một chiếc kim thoa vướng trên cành đào. Người đẹp đi dạo thưởng hoa nhanh vậy! Nhưng cái thấp thoáng dáng kiều ấy, cái mùi hương khuê nữ ấy đã nhuốm màu tâm trạng của con người si tình kia rồi.





Sự tồn tại và diễn biến của THƯỚT THA, THIẾT THA

trong một số từ điển.







TÀI LIỆU THAM KHẢO

Alexandro De Rhodes.1651. Dictionarivm Annamiticivm- Lusitanvm- Latinvm Sacre Congragationis de Propagada fide Cardinales. ROME. (Từ điển Việt- Bồ- La). Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt và Đỗ Quang Chính phiên dịch. Nxb. Khoa học Xã hội. 1994.

Đào Duy Anh.1987. Từ điển Truyện Kiều, Phan Ngọc bổ sung sửa chữa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Gustave Hue.1937. Dictionaire Vietnamien Chinois Français ( Tự điển Việt- Hoa- Pháp), Nhà sách Khai trí, 62,Lê Lai-Saigon, 1971 (chụp theo ấn bản Imprimerie Trung Hòa, 1937)

Hội Khai trí Tiến đức.1931. Việt Nam tự điển, HANOI Imprimerie Trung-Bac Tan-Van. Mặc Lâm xuất bản.

Huình Tịnh Paulus Của.1895-1896. “大 南 國 音字 彙” Đại Nam quấc âm tự vị, SaiGon Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4, rue d’Adran, 4. 1895-1896; Nxb.Trẻ.1998 (theo ấn bản 1895-1896).

J.F.M. Génibrel.1898. Dictionaire Annamite- Francais, Imprimerie de la Mission à Tân Định.

L.J. Taberd.1838. Dictionarium Anamitico- Latinum (南越洋合字彙 Nam Việt Dương hiệp tự vị), Frederrichnagori Vulgo Serampore.

Nguyễn Ngọc San & Đinh Văn Thiện. 2003. Từ điển từ Việt cổ, Nxb. Từ điển Bách khoa. Hà Nội. (lần 01 Nxb. VHTT. H.2001)

Nguyễn Quang Hồng (chủ biên).2006. Tự điển chữ Nôm. Nxb.Giáo dục.1546

Nguyễn Quảng Tuân. 2004. Chữ nghĩa Truyện Kiều. Nxb.Văn Học.Hà Nội.272.

Nguyễn Tài Cẩn. 2004.Tư liệu Truyện Kiều-từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu. Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Hà Nội.637.

Paul Schneider.1993. Dictionnaire historique des ideogrammes Vietnamiens, Domaine Carlone- 98, boulevard Edouard Heriot- BP 209- 06204 NICE Cedex 3 (France), Nice.

Pierre Pegneaux de Béhaine.1772-1773. Dictionarium Anamitico Latinum (Tự vị An nam La tinh), bản chép tay.

Pierre Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu). 1772-1773. Tự vị An Nam La Tinh (Dictionarium Anamitico Latinum 1772- 1773), Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu. Nxb.Trẻ. 1999.

Thanh Nghị.1951.Việt Nam tân từ điển. Nhà in Thời Thế 185/54 đường Colonel Grimaud- Saigon.

Trần Trọng Dương.2006a, Đi tìm âm đọc cổ cho hai chữ LƠ THƠ, t.c Hán Nôm số 03. Tr 44-53.

Trần Trọng Dương.2006b, Thử tầm nguyên hai chữ THA LA, The international conference on Nom Script, www.nomfoundation.org .





--------------------------------------------------------------------------------

[1] A. de. Rhodes ghi: “Cây thơ rơ: cây không có lá, trụi lá.” [1651: 223]. Từ điển của Bá Đa Lộc Bỉ Nhu cũng ghi: “撪冟3 Thơ rơ. Cây trụi lá.” [1773: 470]. Từ điển Taberd cũng ghi: “撪囉 thơ rơ, arbor foliis expoliata.” [1838: 499]. Tra trong từ điển của Huình Tịnh Paulus Của thì thấy: “盧 lơ thơ: xơ rơ, thưa thớt” [1895 - 1896:573], “撪xơ .n. Rã rời, tan tác, còn cái xác không, cái bã không, cái vỏ không. Xơ xơ: rách rã, tơi bời, tan tác. Xơ rơ (xác rác): thưa thớt còi cụt, trơ trọi, còn nhánh không, (cây cối). Bão bùng cành ngọn xơ rơ.” [1895 – 1896: 1198]; “撪 rơ,… xơ rơ: thưa thớt, xờ xạc. (cây cỏ)” [1895 – 1896:874]; “Thơ rơ: xơ rơ thưa thớt, như cây mùa đông, nhánh lá xơ rơ. Thơ thơ. id.” [1895 – 1896: 1018]. Từ điển Tiếng Huế: “Thơ rơ (xơ rơ) cây trụi lá, nghĩa bóng vẻ thiểu não (Cây thầu dầu thơ rơ, dáng điệu anh cũng xơ rơ in nhau)[2004:874].

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

Từ nguyên của "văn hiến"

TỪ NGUYÊN CỦA TỪ “VĂN HIẾN”

QUA BỐI CẢNH TRI THỨC NHO GIÁO VIỆT NAM- TRUNG HOA





Trần Trọng Dương

Đã đăng: Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa. Hà Nội. số tháng 3/2012. tr.5- 14.
download bản cứng: http://www.mediafire.com/view/?787lmmw9f8kmm12



“Văn hiến” là khái niệm trước nay hay được sử dụng trong nhiều công trình nghiên cứu, nhất là nghiên cứu về lịch sử văn hóa Việt Nam thời Trung đại. Đây là một thuật ngữ của Nho gia có lẽ đã được sử dụng tại Việt Nam trong gần hai thiên niên kỷ qua. Mục đích của bài viết xuất phát từ quan niệm: khi nghiên cứu bất cứ một lĩnh vực nào thì người nghiên cứu nên tự đặt mình vào bối cảnh thời đại cũng như bối cảnh tri thức của thời đại đó, tộc người đó. Điều này sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn từ bên trong, tránh đi lối nhìn đã “hiện đại hóa” của đời sau. Chính vì vậy, bài viết sẽ khảo về từ nguyên của “văn hiến” để ngõ hầu lý giải được phần nào nội hàm của khái niệm này trong quá khứ từ đó góp phần vào việc nghiên cứu văn hiến nói riêng và văn hóa truyền thống nói chung.

Bài viết tiến hành khảo cứu về khái niệm văn hiến theo chiều lịch đại. Phương pháp khảo cứu của chúng tôi gồm các bước sau. Bước thứ nhất, khảo về cách hiểu về văn hiến qua ghi nhận của các từ điển được biên soạn sau khi Nho học bị bãi bỏ. Bước thứ hai, khảo khái niệm văn hiến trong bối cảnh văn hóa và ngôn ngữ của tiếng Hán, từ đó nhằm phân biệt nội hàm của khái niệm này giữa tiếng Việt và tiếng Hán. Bước thứ ba, khảo về khái niệm này thông qua sự ghi nhận của hệ thống từ điển và văn liệu của tiếng Việt lịch sử. Bước thứ tư, khảo về các văn cảnh của Hán văn Việt Nam (qua các tư liệu sử ký, văn bia đề danh tiến sĩ, văn sách đình đối, và các văn bản nghệ thuật khác), để từ đó phân suất các trường nghĩa của khái niệm này từ bối cảnh tri thức Nho học.



1. Từ cách hiểu về “văn hiến” sau khi Nho học bị bãi bỏ

Văn hiến là từ vựng gốc Hán, được viết bằng tự dạng 文獻. Kể từ sau khi Nho học bị bãi bỏ ở Việt Nam năm 1919, và nhất là kể từ sau khi chữ Hán chữ Nôm bị thay thế hoàn toàn vào năm 1945, thì văn hiến cùng những từ gốc Hán khác đã chịu chung một số phận. Đó là sự cắt đoạn rời khỏi lịch sử vốn có của nó. Thêm nữa, việc cắt rời ấy đã khiến cho ngành từ nguyên học gặp rất nhiều khó khăn; ấy là chưa kể đến những thất thiệt khác cho sự đọc hiểu và nghiên cứu về tiếng Việt. Mục này, bài viết sẽ tiến hành khảo lại các định nghĩa của một số từ điển tiếng Việt được biên soạn trong thế kỷ XX, để hiểu thêm về lịch sử các cách định nghĩa cho khái niệm này.

Đại từ điển tiếng Việt (2008) kế thừa và bổ sung “văn hiến: dt. Truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều nhân tài.”[1] Từ điển từ Hán Việt (2007) của Lại Cao Nguyện và Phan Văn Các và Từ điển tiếng Việt (2007) của Trung tâm từ điển ghi: “văn hiến.t.d. truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp”[2]. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003) ghi: “văn hiến. truyền thống văn hoá tốt đẹp và lâu đời. Chu Hy đời Tống chú thích một câu trong sách "Luận ngữ" như sau: "Văn là điển tịch; hiến là tốt đẹp, tài giỏi" (sic). Như vậy, "văn hiến" nguyên nghĩa là văn chương, sách vở hay, bảo tồn truyền thống văn hoá lâu đời.”[3] Từ điển tiếng Việt (2000) của Viện Ngôn ngữ học ghi: “văn hiến d.truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp.”[4] Từ điển tiếng Việt (tb lần 2, 1977) do Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý bổ sung ghi: “văn hiến.t. Cg. Văn vật. Yêu chuộng văn học, văn hóa: Việt Nam là nước văn hiến”[5] Từ điển Hán Việt từ nguyên (1999) của Bửu Kế ghi: “văn hiến. văn: sách sử. Hiến: kẻ hiền tài...Một nước có nhiều hiền tài có sử sách thì gọi là nước văn hiến”[6]. Tự điển Việt Nam của Ban Thu thư Khai trí (1971) ghi văn hiến cũng như văn minh.[7] Từ điển Việt Nam phổ thông (1951) của Đào Văn Tập, sau ghi giải thích đúng từ nguyên chữ văn hiến, lại phân suất nghĩa thành: “chỉ những cái hay trong một đời, đáng làm gương mẫu” [8]. Việt Nam tân từ điển (1951) của Thanh Nghị ghi: “văn hiến.d. sách vở hay và nhân vật tốt, nghĩa rộng như tiếng văn minh: nghìn năm văn hiến.”[9] Tự điển Việt- Hoa- Pháp (1937) của Gustave Hue ghi nhận văn hiến = văn minh[10]. Hán Việt từ điển giản yếu (1932) của Đào Duy Anh ghi: “văn hiến: sách vở và nhân vật tốt trong một đời.”[11] Việt Nam tự điển (1931) của Hội Khai trí Tiến đức ghi: “văn hiến文憲.học hành, hiền đức. Nơi văn hiến”[12]. Tuy nhiên, chữ Hán chế bản sai do đồng âm, 獻nhầm thành 憲. Đây là cuốn từ điển sớm nhất có mục từ này. Các từ điển của A.de Rhodes (1651) cho đến Huình Tịnh Của (1898) đều không thấy ghi nhận.

Có thể nói, các từ điển tiếng Việt hiện đại chỉ phân suất khái niệm này với một nét nghĩa chung chung mơ hồ. Đặc biệt là sự không phân biệt rạch ròi giữa khái niệm văn hóa và văn hiến, coi văn hiến là nền văn hóa tốt đẹp được kéo dài. Gần đây, để kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, bộ sách “Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long” đã được ấn bản với số lượng trang sách lên đến 8000 trang, trong đó tinh thần làm việc của các soạn giả đều bàng bạc một sự mơ hồ về khái niệm.

Có tác giả, mặc dù sau khi đã bàn qua về từ nguyên của khái niệm văn hiến vẫn sẵn sàng quy tất cả những lĩnh vực như toán học, kiến trúc, thương nghiệp, nghề truyền thống, thiết kế đô thị, và...tinh thần yêu nước vào nội hàm của văn hiến[13]. Hơn thế nữa, cách hiểu ôm đồm ấy còn dẫn đến việc tác giả dùng các khái niệm (văn hiến, văn minh, văn hóa, văn vật,...) một cách lẫn lộn theo cảm hứng và xúc cảm của người cầm bút.

Năm 1998, Đỗ Trọng Huề đã định nghĩa như sau: “Văn hiến là trình độ văn hóa của một dân tộc đã thoát khỏi bóng tối của thời tiền sử để bước vào ánh sáng của thời kỳ lịch sử”[14].

Đặc biệt, trước đó, văn hiến còn được triết gia Kim Định sáng tạo theo phong cách tư duy triết học của mình, bất kể sự thực lịch sử và những giới hạn cho phép của từ nguyên học cũng như văn hóa học và lịch sử tư tưởng. Ông viết: “Văn hiến là những người hy hiến thân tâm cho văn hóa và được người trong nước kính nể nghe theo. Đó là một loại tông đồ và có thể nói ở đây cũng tìm ra được nét đặc trưng của nền văn hóa Việt Nho. Bên Ấn Độ tuy cũng có văn hiến nhưng không vươn lên đến địa vị cao nhất trong xã hội vẫn dành cho tăng lữ Brahmana. Bên Âu Châu còn kém nữa đến độ không có văn hiến, chỉ mới có văn hào, văn sĩ.” [15] Cách định nghĩa của Kim Định xuất phát từ cách ông hiểu về nguyên tự của văn hiến. Ông hiểu văn là văn hóa (theo nghĩa rộng và khá hiện đại), và hiến là hy hiến (hy trong từ hy sinh, hiến với nghĩa cơ bản của nó trong tiếng Hán là dâng hiến). Ông coi văn hiến là một danh từ trỏ người (người hy hiến, như văn hào, văn sĩ), chứng tỏ ông cũng từng biết đến nét nghĩa nguyên gốc thứ hai mà cổ nhân hiểu (hiến còn trỏ hiền nhân). Nhưng tư duy tư biện của ông quá mạnh!

Có thể nói, văn hiến là một khái niệm đến nay khá mơ hồ đối với người hiện đại, nhất là khi nó được so sánh với một số khái niệm khác như văn hóa[16], văn minh[17], văn vật[18]. Thực tế, những thuật ngữ cơ bản trên của ngành văn hóa học đều xuất phát từ kinh điển Nho giáo. Nguyễn Vinh Phúc nói “Phương Tây không có khái niệm văn hiến. Chỉ ở Việt Nam, Trung Quốc và những nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo mới có khái niệm này”[19] là hoàn toàn hữu lý.

Như trên đã bàn, văn hiến là một thuật ngữ của Nho gia, thuật ngữ này đã đi vào hệ thống từ vựng tiếng Việt khá sâu. Sâu đến mức nhiều người Việt (quãng gần 100 năm trở lại đây) dường như đã quên hẳn ý nghĩa từ nguyên của nó vốn được dùng trong quãng thời gian rất dài. Đây là một ví dụ cho thấy sự đứt gãy văn hóa do từ bỏ văn tự truyền thống (chữ Hán và chữ Nôm, và nhiều văn tự truyền thống khác).

Chúng tôi cho rằng từ văn hiến đã gia nhập vào Việt Nam từ trước đây khá lâu. Nếu theo lý thuyết, thì chữ này có thể được đưa vào nước ta cùng với kinh sách của Nho học cách nay 2000 năm, ít nhất từ thời Sĩ Nhiếp. Nhưng từ văn hiến thực sự là một yếu tố của tiếng Việt thì có lẽ chỉ trong khoảng 1200 năm trở lại đây[20]. Để xác định được thời điểm gia nhập của nó, chúng ta có thể tiến hành khảo cứu theo hai hướng. Hướng thứ nhất là tìm được ngữ liệu cụ thể của nó trong một văn bản tiếng Việt qua các văn bản Nôm. Hướng thứ hai là tìm được ngữ liệu cụ thể của nó trong văn bản Hán văn Việt Nam. Nhưng trước khi thực hiện những khảo cứu trên, bài viết sẽ tiến hành nghiên cứu về khái niệm này trong lịch sử tiếng Hán và văn hóa Hán.

2. Khái niệm văn hiến trong lịch sử tiếng Hán

2.1.Sách Luận ngữ thiên Bát dật có đoạn: Tử viết: Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã; Ân lễ, ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc cố dã” 子曰夏禮吾能言之杞不足徴也殷禮吾能言之宋不足徴也文獻不足故也 nghĩa là “Lễ nhà Hạ thì ta có thể bàn được, nhưng nước Kỷ (dòng dõi nhà Hạ) chẳng đủ để làm chứng; lễ của nhà Ân, thì ta cũng bàn được, nhưng nước Tống (dòng dõi nhà Ân) chẳng đủ để làm chứng. Ấy là vì văn hiến hai nước ấy không đủ”. Chu Hy chú: Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã 文典籍也獻賢也[21] nghĩa là: văn là điển tịch; hiến là người hiền vậy.

Đoạn này cho thấy ý rất quan trọng về văn hiến. Trong đó, ta nên chú ý đến mối quan hệ giữa văn hiến và lễ. Cộng với lời chú của Chu Hy thì ta có thể có tam đoạn luận sau:

Đoạn 1: Văn hiến = lễ

Đoạn 2: Văn = điển tịch ; Hiến = người hiền

à Đoạn 3 Văn hiến = điển tịch (ghi chép về lễ) + người hiền (người chế lễ, hành lễ)

Đây có thể coi là nghĩa nguyên bản nhất của từ văn hiến từ bối cảnh tri thức của Nho học Trung Quốc, và cũng có thể coi đây là khái niệm trùng khít giữa Nho học Tiên Tần và Tân Nho học.

2.2. Sách Vũ cống đồi chỉ 禹貢錐指(quyển 19) của Hồ Vịnh đời Thanh: “自兩漢以降嶺南之風氣漸移犀象毒冒珠璣銀銅果布之湊於是乎在魁奇忠信材徳之民於是乎生一以為脂膏之地一以為文獻之邦 nghĩa là “từ đời lưỡng Hán về sau, phong khí Lĩnh Nam[22] dần đổi; cho nên sừng tê, ngà voi, đồi mồi, ngọc bích, vàng, đồng, hoa trái tích tụ đã nhiều; mà những bậc khôi kỳ, trung tín, tài đức xuất hiện cũng lắm, có thể coi [Lĩnh Nam] vừa là đất màu mỡ, vừa là nước văn hiến.”[23]

Đoạn này nhấn mạnh đến nhân vật - yếu tố chủ thể làm nên văn hiến của một đất nước. Nhân vật đó phải là bậc khôi kỳ, có đức trung tín và tài năng theo quan niệm của Nho giáo.



2.3. Từ điển Từ nguyên - cuốn từ điển phổ dụng được soạn vào đầu thế kỷ XX, đã giải thích trên cơ sở định nghĩa của Chu Hy, nên đã viết: “văn trỏ những tư liệu văn tự liên quan đến điển chương chế độ, hiến trỏ những người nghe rộng biết nhiều” [tr.0737].

Cách định nghĩa trên đây của từ điển Từ nguyên là tiếp thu tinh thần của Chu Hy. Tuy nhiên, định nghĩa hiến (trỏ những người nghe rộng biết nhiều) lại mang nét nghĩa hơi hẹp hơn so với thực tế. Bậc hiền đương nhiên là “bác lãm quần thư”, tri thức hoàn bị; song tri thức chỉ là một yếu tố, ngoài ra người hiền còn phải đáp ứng nhiều tiêu chí khác như đức độ, khí tiết, phải có chính tích, có trứ thư lập ngôn.

2.4. Từ điển Từ hải sau khi giải thích về từ nguyên, đã ghi nhận nghĩa của chữ văn hiến trong tiếng Hoa hiện nay chỉ còn một nghĩa mở rộng là “những tư liệu văn vật có giá trị lịch sử như: lịch sử văn hiến, đồng thời cũng chỉ những tư liệu sách vở quan trọng liên quan đến một ngành khoa học cụ thể, ví dụ: y học văn hiến. Nay (văn hiến) còn là tên gọi chung cho bất cứ một dạng vật chất nào sử dụng văn tự, tranh ảnh, phù hiệu, để kí tải tri thức, thông tin như: ấn phẩm, băng từ, đĩa CD, băng hình, bản in ốp sét”[24].

Tóm lại, có thể nói rằng, từ văn hiến trong tiếng Hán đã thu hẹp nét nghĩa ban đầu của Nho học, mà trỏ chung cho các tư liệu lưu trữ thông tin. Còn từ văn hiến trong các từ điển tiếng Việt hiện đại được biên soạn trong suốt thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI thể hiện sự bất nhất và không tường minh về mặt khái niệm như đã nêu.

3. Từ văn hiến trong tiếng Việt lịch sử

Chúng tôi tìm được văn liệu có niên đại sớm nhất là vào thế kỷ XVII trong cuốn Thiên Nam ngữ lục khi viết về Sĩ Nhiếp/ Tiếp 士燮[25]. Tác phẩm này đã ca ngợi “Nam Giao học tổ” như sau:

Quan quân mà lại thầy ta,

Phủ quân tôn vị hiệu là Sĩ vương

Nước nên “văn hiến chi bang”

Đức giáo chẳng nhường Đậu thị Hà Tây (câu 1930-1933)

Ca ngợi Sĩ Nhiếp ở các mặt:

tuần này ắt chẳng lo chi

mối giềng đã tỏ, luật lề đã phân

Đồng niên quý thuế có ngần

Quan quân rõ phép, binh dân rõ đường

Điều hòa chế độ kỷ cương

Mở kho giáo hóa, rỡ ràng nhân luân” (c.1924-1928)

Đoạn thơ trên ca ngợi họ Sĩ là bậc vương, bởi ông đã có công giáo hóa biến Giao Chỉ trở thành “văn hiến chi bang”. Về hình thức, ông là “quan quân”, nhưng thực tế ông lại là bậc sư biểu (thầy ta). Bậc sư biểu ấy đã dùng đức giáo để cho dân ta hiểu rõ “mối giềng”, “luật lệ”. Chữ mối giềng dịch từ chữ cương thường. Như thế, văn hiến ở đây tạm có thể phân suất được những nét nghĩa sau: 1.Cương thường (nhân luân); 2. Luật lệ (cho binh và dân); 3. Giáo hóa. Trong đó, cương thường là những thiết chế về mặt huyết tộc và đạo đức xã hội. Luật lệ là những quy phạm mang tính pháp chế và quản lý hành chính nhà nước.

Sử cũ đều ca tụng Sĩ Nhiếp là vị quan tốt, rất có uy tín trong dân chúng. Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Vương (Sĩ Nhiếp) độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người"... Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Đoạn trên cho ta hai nét nghĩa nữa của khái niệm văn hiến: 1. thông thi thư (thông: hiểu nằm lòng; thi: Kinh thi; thư: Kinh thư); 2.học Lễ và Nhạc.

Ngữ cảnh tiếng Việt thứ hai mà chúng tôi biết được, xuất hiện trong lời giáng bút của thánh mẫu năm 1923, có đoạn mở đầu như sau:

Sông Nhị núi Nùng, nước bốn ngàn năm văn hiến

Con Hồng cháu Lạc, dân hai mươi triệu đồng bào[26]

Văn cảnh này không cung cấp thêm nét nghĩa nào cho khái niệm văn hiến. Tạm thời chúng tôi không bàn đến quãng thời gian đã được kéo dài bằng tâm lý dân tộc bản vị. Giá trị là ở chỗ, đây là văn cảnh tiếng Việt sớm nhất xuất hiện cụm từ“bốn ngàn năm văn hiến”.

4. Khái niệm văn hiến qua bối cảnh tri thức Nho gia Việt Nam

4.1. Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi do Lý Tử Tấn viết thông luận, có đoạn: “từ khi người Nguyên vào Trung Quốc, về sau thiên hạ biến thành nói tiếng Hồ, mặc áo Hồ. Không thay đổi thì chỉ có nước ta cùng họ Chu ở Kim Lăng, họ triệu ở Kim Sơn mà thôi. Đến khi Thái tổ nhà Minh lên làm vua, sai Dịch Tế Dân sang thông hiếu, vua Dụ Tông sai Doãn Thuấn Thần sang cống nhà Minh. Vua Minh úy lạo hỏi quốc sứ khen phong tục, y phục vẫn giống như văn minh Trung Hoa, ban cho bài thơ ngự chế rằng”:

安南際有陳 / 風俗不元人

衣冠周制度/ 禮樂宋君臣

An Nam tế hữu Trần/ Phong tục bất Nguyên nhân

Y quan Chu chế độ/ Lễ nhạc Tống quân thần.

(đất An Nam có họ Trần/ phong tục không theo người Nguyên

áo mũ[27] vẫn theo chế độ nhà Chu/ lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)

Rồi cho bốn chữ “Văn Hiến Chi Bang” và thăng địa vị cho sứ thần của Đại Việt lên trên sứ thần Triều Tiên ba cấp.”[28]

Đây là đoạn thông luận mà Lý Tử Tấn chua cho phần chính văn của Nguyễn Trãi đang gián tiếp bàn về văn hiến, đoạn ấy cụ thể như sau: “Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô[29], Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước”[30].

Đoạn văn trên cho chúng ta biết một số dữ kiện như sau: 1. Chữ văn hiến được dùng cho Đại Việt vào cuối đời Trần, điều này chứng tỏ 2. Nho sỹ đời Trần mạt ít nhiều tạo dựng được bối cảnh tri thức cũng như bối cảnh văn hóa Nho giáo ở một mức độ nhất định, đến mức vua Minh Thái Tổ làm thơ ngự chế và ban tặng đích danh bốn chữ “văn hiến chi bang文獻之邦” vào năm Đại Trị thứ nhất (1368)[31] 3. Như thế, đây là tư liệu thành văn sớm nhất khảo được (trái với quan niệm phổ biến trước đây, coi chữ văn hiến lần đầu xuất hiện trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi).

Đoạn văn trên cũng cho biết một số thông tin cụ thể về nội hàm của khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho giáo. Đó là bốn yếu tố: 1.Phong tục, 2.chế độ y quan; 3.chế độ lễ nhạc[32]. 4.Ngôn ngữ.

4.2. Chữ văn hiến được đưa vào văn chương trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428):

維我大越之國/ 實為文獻之邦

Duy ngã Đại Việt chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang

Nghĩa là: Như nước Đại Việt ta/ Thực là nước văn hiến.



Thế kỷ XV trên bia tiến sĩ ở Văn Miếu Hà Nội khoa Quang Thuận thứ 4 (1463) có ghi đoạn văn sau: "Học trò may được khắc trên bia đá này, phải theo danh nghĩa sửa đức hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến".

Tuy nhiên, hai ngữ cảnh trên đều không cho biết nội hàm của khái niệm văn hiến. Bình Ngô đại cáo cung cấp một thông tin lịch sử đáng chú ý, đó là sự ghi nhận Đại Việt “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Phải chăng đây chính là cứ liệu quan trọng (duy nhất!) để các nhà làm từ điển hiện đại phân suất nghĩa của từ văn hiến thành “truyền thống văn hóa lâu đời” như đã nói đến ở trên?



4.3.Bài tựa Tân đính Lĩnh Nam chích quái tự新訂嶺南摘怪序 của Vũ Quỳnh trong sách Lĩnh Nam chích quái 嶺南摘怪được viết năm 1492 có đoạn như sau: 嶺南摘怪之書。所以嵇考古奇幻之事。憑諸俗話。出於群儒記載。蔓引輯述不一。蓋我越文敎最古。較諸國甚遠。其怪誕遺編。默付前鋻皆得於偶語常談。以愈世紀耳。況洪荒事迹。至歷千古。驗之無証著之難明。多有缺疑。豈可詳辨乎哉。Nghĩa là: Vốn sách Lĩnh Nam chích quái[33] nhằm khảo sát những việc quái lạ xưa nay, thường căn cứ vào lời kể dân gian, do các nhà nho chép thì rất nhiều và không thống nhất. Như nền văn hiến nước Việt ta, vốn rất cổ, so với các nước khác. Biết bao nhiêu điều quái lạ, được ghi lại, phản ánh việc xưa, đều là câu chuyện trao đổi hằng ngày của các thời kỳ đó.

Trong văn cảnh trên, văn hiến được coi như là những ghi chép (thư tịch) về chuyện kể dân gian.

4.4. Bài ký văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 5 (1667) do Nguyễn Kiều[34] soạn và khắc năm Vĩnh Thịnh 13 (1717) có đoạn như sau: “kính nghĩ quốc triều nhân nghĩa dựng nước, văn hiến nức danh. Khoa thi Tiến sĩ đặt ra từ lâu, khắc đá đề tên quy mô to lớn...Thực nhớ một lòng sửa đức, trăm việc mở mang, chính sự tốt đẹp của nước nhà đổi thay rạng rỡ, hiền tài trong thiên hạ nượp nượp kéo về... Đến nay, hoàng thượng vẻ vang kế thừa ngôi báu, hết sức xây đắp cơ đồ, nắm giữ quyền bàn bạc nghi lễ, theo thể thức tôn quý người hiền...Như vậy đủ biết sự chế tác của thánh triều có quan hệ đến phong hóa”[35].

Đoạn văn trên cho biết một số dữ kiện về khái niệm văn hiến như sau: 1.Khoa cử; 2. Văn vật (khắc đá); 3. Hiền tài; 4. Nghi lễ. và 5.Phong hóa (phong tục giáo hóa)[36].

4.5. Thế kỷ XIX, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã viết: "Khi nhà Lê dựng nước, văn hóa lại thịnh dần, hơn 300 năm chế tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến đứng đầu trung châu, điển chương rạng cả triều đại" (Văn tịch chí, bản dịch, quyển 4, tr. 41).

4.6. Điện Thái Hòa (Huế) đời Nguyễn còn khắc một bài thơ như sau:

文獻千年國 / 車書 萬里圖

鴻龐開闢後 / 南服一唐虞

Phiên âm:

Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng Bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu

Nghĩa là:

Nước nghìn năm văn hiến

Cơ đồ[37] muôn dặm xa thư

Kể từ sau khi Hồng Bàng mở nước

Nước Nam lại là một Đường Ngu



Dịch thơ:

Nước văn hiến nghìn năm đã có

Mối xa thư muôn dặm cơ đồ

Hồng Bàng mở nước từ xưa

Nam bang lại một Đường Ngu thái hòa



Đây cũng có thể coi là một định nghĩa nữa về văn hiến. Trong đó, khái niệm quan trọng nhất là Xa thư. Xa là xe, thư là sách. Xa thư nguyên dẫn từ thiên Trung dung中庸sách Lễ ký: kim thiên hạ xa đồng quỹ thư đồng văn 今天下車同軌書同文 nghĩa là “nay thiên hạ: xe cùng cỡ trục, sách chung văn tự”, sau xa thư trỏ thể chế pháp độ của nhà nước theo mô hình Nho giáo. Xét về từ nguyên thì thể chế pháp độ ấy bao gồm văn tự- thư tịch và quy tắc xã hội. Sách Đại Nam quốc sử diễn ca của Phạm Đình Toái có câu: dõi truyền một mối xa thư, cũng là nói về văn hiến nước Đại Nam vậy.

4.7. Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội có đôi câu đối:

南邦文獻千年國

東魯儒宗萬世師

Nam bang văn hiến thiên niên quốc

Đông Lỗ nho tông vạn thế sư

Nam bang là nước ngàn năm văn hiến

Ngài sáng lập đạo Nho ở đất Đông Lỗ là bậc thầy của muôn đời.

Qua nội dung câu đối và bài thơ trên, có thể thấy văn hiến Đại Việt luôn được so sánh, đối chiếu với thời đại thịnh trị viễn cổ là Đường Ngu (nhà Chu) với các nhân vật lý tưởng, các thánh nhân của Nho gia như Chu Công, Khổng Tử. Rõ ràng, văn hiến là một khái niệm của Nho giáo, và được dùng bởi các nhà Nho thuần thành. Văn hiến được dùng để ngợi ca một cảnh tượng thái hòa về chính trị, bình ổn về xã hội và nhân tâm. Đặt trong, bối cảnh như vậy, những biểu tượng và ý nghĩa của khái niệm này đã dần rõ nét.

4.8. Bài văn sách đình đối của Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân Vũ Tông Phan khoa Bính tuất niên hiệu Minh Mệnh thứ bảy (1826): Hựu dĩ ngã Việt quan chi, Đinh bình sứ quân chi loạn, Lý xưng văn hiến chi bang, Lê phủ thái bình chi vận, trị nhật hà đa dã? 又以我越觀之丁平使君之亂李稱文獻之邦黎撫太平之運治日何多也nghĩa là: “Lại đem [sử] nước Việt ta ra mà xét, triều Đinh thì bình loạn sứ quân, triều Lý thì gọi là nước văn hiến, triều Lê chăm vận thái bình, thời gian trị vì sao nhiều vậy?”[38]

Đến đây, chúng ta thấy, sách vở thư tịch cũ đã ghi chép những đoạn khen ngợi , xác nhận nước ta là “văn hiến chi bang” từ thời Sĩ Nhiếp cho đến Lý, Trần, Lê, Nguyễn.

4.9. Bài văn sách đình đối của đệ nhị giáp tiến sĩ Nguyễn Đình Dương khoa Canh thìn niên hiệu Tự Đức thứ ba mươi ba (1880): Ngã quốc tố xưng văn hiến, nhi nhân gian thư tịch chi truyền, thực giác quả lậu. Bất duy ngoại quốc chư thư, nhân sở hãn kiến, nhi kinh, sử, tử, điển, diệc sở hãn kiến. 我國素稱文獻而人間書籍之傳實覺果漏不維外國諸書人所罕見而經史子典亦所罕見[39] Nghĩa là : Nước ta vốn xưng là văn hiến mà việc lưu truyền sách vở trong dân gian thực là ít ỏi. Không chỉ có các sách nước ngoài người ta ít được thấy, mà các sách kinh, sử, chư tử, điển chế cũng ít được coi .

5. Phân suất cấu trúc nghĩa của khái niệm văn hiến

Về mặt tự nguyên, Văn có bốn nghĩa: văn tự, ngôn ngữ, văn thư, và văn chương[40], cũng như chỉ những tư liệu nói chung có liên quan đến điển chương chế độ, hiến chỉ người hiền tài, chủ thể sáng tạo có học thức.

Mặt khác, từ những cứ liệu như đã dẫn ở trên, trong bối cảnh của tri thức Nho giáo, tạm thời có thể phân suất nghĩa của khái niệm văn hiến như sau.

1.Ngôn ngữ
2.Văn tự
3.Sách vở, điển tịch
4.Văn chương
5.Các yếu tố văn hóa- chính trị thuộc điển chương, chế độ của Nho giáo, như: chế độ y quan, chế độ lễ nhạc, pháp độ tiên vương, hiến pháp hoàng triều. Điển chương là “các khuôn phép lễ chế từ vua trước đặt ra’[41], chế độ là “những phép tắc định lập rõ ràng”[42], pháp độ là những quy định tiêu chuẩn (pháp) về hành vi để đánh giá (độ) phẩm hạnh, đức độ, học vấn của một người.
6.Phong tục (phong giáo): những ảnh hưởng của chế độ lễ nhạc quan phương đối với cộng đồng xã hội.
7. Giáo dục và chế độ khoa cử.
8. Người hiền tài (chủ yếu trỏ Nho sĩ, nhưng bản thân mỗi Nho sĩ lại là một phức thể dung hội Tam giáo và có thể còn hơn thế nữa, nên đối tượng ngoại diên thuộc loại hình nhân vật lịch sử này cũng khá là phong phú).
Có thể biểu diễn cấu trúc khái niệm văn hiến qua mô hình sau:




Tuy nhiên, ở từng yếu tố cũng cần phải có sự phân định một cách cụ thể. Thư tịch gồm những loại sách gì? Theo phân loại thời trung đại thì thư tịch được chia ra làm kinh, sử, tử, tập, tức các sách kinh điển, sách lịch sử, các sách trước tác của kẻ sĩ và các sách biên soạn lại khác. Theo thời gian, thì thư tịch chia làm hai loại: 1. Cổ thư (sách vở của người xưa để lại) và 2. Kim thư (sách do người đương thời soạn). Vì thế, khi nghiên cứu về văn hiến đời nào đó ở diện thư tịch, thì sẽ có hai hướng nghiên cứu. Thứ nhất là việc nghiên cứu cổ thư thuộc về nghiên cứu thư mục học. Cách nghiên cứu này dựa vào các bộ thư mục của từng thời đại để có thể biết được khối lượng tri thức của đời đó như thế nào. Thứ hai là nghiên cứu sách vở trước tác vào một giai đoạn lịch sử cụ thể đó. Và cuối cùng, đối với người nghiên cứu, thư tịch còn bao gồm cả những sách vở của đời sau sưu tập hay biên soạn về thời đại đó nữa.

Mặt khác, mối quan hệ giữa các yếu tố của khái niệm văn hiến cũng cần phải bàn đến. Ngôn ngữ văn tự được coi là yếu tố tiên quyết của một quốc gia văn hiến. Đặc biệt là văn tự, văn tự là một trong những phát minh quan trọng nhất để xác độ trình độ phát triển của một dân tộc. Có văn tự thì mới có thể ký chép sách vở. Sách vở có tính truyền thống, có ảnh hưởng đến nhiều người, là khuôn mẫu của muôn đời thì gọi là kinh điển. Kinh điển của cổ nhân là nguồn tri thức quan trọng nhất để tích lũy các tri thức và tạo nguồn cho trí thức của một cộng đồng. Khi đã có được vị trí nhất định trong một hệ thống chính trị quan phương, giới trí thức sẽ góp phần quan trọng để tái tạo và thi hành những điển chương của cổ nhân; đồng thời họ cũng sẽ tiến hành kiến tạo những chế độ mới, điển chương mới, phép tắc mới. Thêm nữa, bất kỳ một quan lại nào theo lối học cử tử ngày xưa cũng đồng thời là một văn sỹ. Cho nên, các sách vở biên soạn của cá nhân mỗi người cũng có thể coi là một nguồn thư tịch góp phần làm nên văn hiến của thời đó. Dù văn chương, lịch sử hay sách tư tưởng triết học đều xoay quanh khía cạnh điển chương giáo hóa, với chức năng “văn dĩ tải đạo”, “củng cố hồng đồ”. Sách vở góp phần tạo nên nhân tài với những chuẩn tắc của quá khứ, nhân tài dựa vào những chuẩn tắc cũ để thiết lập nên hệ thống chuẩn tắc mới (mang màu sắc cổ nhân) và biên soạn những sách vở mới. Đây có thể coi là một mô hình tái tạo tuần hoàn và sáng tạo khép kín của những nền văn hóa thuộc ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo.



Có thể thấy văn tự, thư tịch, hiền tài và điển chương chế độ là sản phẩm là kết quả của các hành vi chính trị - văn hóa. Chúng là phần nổi, phần dễ nhìn thấy của các hoạt động xã hội. Cụ thể, thư tịch là kết quả của quá trình biên soạn, trước tác, dịch thuật của cá nhân cũng như nhà nước. Hiền tài vừa là sản phẩm tự thân vừa là sản phẩm chính thống của chế độ khoa cử. Điển chương chế độ là yếu tố lũy tích của các triều đại, qua rất nhiều lần “chế lễ tác nhạc, định triều quy” (tức hành vi thiết định pháp độ và hệ thống hành chính). Các quá trình hoạt động văn hóa xã hội trên đều có thể quy vào quá trình kiến tạo văn hiến. Có thể thấy rõ điều này qua mô hình dưới đây.









Mô hình văn hiến và kiến tạo văn hiến trên đây tạm có thể coi như là bảng chuẩn để tiến hành khảo sát từng tiêu chí qua từng trường hợp cụ thể cho các giai đoạn lịch sử nhất định nào đó. Việc khảo sát này dựa trên những thư tịch cổ còn lại, cũng có khi có sự kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây.

Tiểu kết: Bài viết, từ việc khảo sát các văn cảnh xuất hiện chữ “văn hiến” trong các thư tịch Nho gia, đã phân suất được tám nét nghĩa của khái niệm này trong bối cảnh tri thức của những người biên soạn (là các nhà Nho) trong chiều dài lịch sử quãng 600 năm. Sự khảo sát này chỉ có tính chất thao tác và thực hiện thí điểm, chứ chưa phải đã bao quát hết toàn bộ tư liệu sách vở cổ của Việt Nam trong thời Trung đại, vì thế, kết luận và mô hình đưa ra ở đây tạm chỉ gói gọn trong những tư liệu mà chúng tôi hiện có. Việc áp dụng mô hình cấu trúc văn hiến từ bối cảnh tri thức Nho giáo cũng như khảo sát hoạt động kiến tạo văn hiến của các triều đại quân chủ trước đây cần được khảo sát qua từng nhân vật hay thời đại cụ thể từ đó mới cho phép chúng ta có một hình dung bước đầu về một nền văn hiến của dân tộc, góp phần vào việc nghiên cứu so sánh sự tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam và trung Hoa trong quá khứ xa xưa.

Nhuệ Giang, tháng 6 năm 2010- tháng 8 năm 2011







Tác giả: Trần Trọng Dương

Địa chỉ: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 13 Đặng Tiến Đông, Đống Đa, Hà Nội.

Email: trantrongduonghn@gmail.com



--------------------------------------------------------------------------------

[1] Nguyễn Như Ý (chủ biên). Đại từ điển tiếng Việt. Nxb.Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh. Tr.1744.

[2] Lại Cao Nguyện và Phan Văn Các. 2007. Từ điển từ Hán Việt. Nxb.KHXH. H. tr.534.

Trung tâm Từ điển học Vietlex. 2007. Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng. tr.1697.

[3] http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn

[4] Viện Ngôn ngữ học. 2000. Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng & TT từ điển học. tr.1100.

[5] Từ điển tiếng Việt (tb lần 2, 1977). Nxb.KHXH.H. tr.846.

[6] Bửu Cầm. (1999). Từ điển Hán Việt từ nguyên. Nxb. Thuận Hóa. Tr.2309.

[7] Ban Tu thư Khai trí, (1971), Tự- điển Việt Nam , Nhà sách Khai trí 62 Lê Lợi Sài Gòn. Tr.911.

[8] Đào Văn Tập, (1951), Từ điển Việt Nam phổ thông, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn. Tr.689.

[9] Thanh Nghị. (1951). Việt Nam tân từ điển, Nhà in Thời Thế 185/54 đường Colonel Grimaud- Saigon. tr.1428.

[10] Gustave Hue, (1937), Dictionaire Vietnamien Chinois Français ( Tự điển Việt- Hoa- Pháp), Nhà sách Khai trí, 62,Lê Lai-Saigon, 1971 (in theo ấn bản Imprimerie Trung Hòa). Tr.1113.

[11] Đào Duy Anh, (2001 -in theo ấn bản cũ 1932), Từ điển Hán Việt 辭 典 漢 越 , Nxb Khoa học Xã hội, Tp Hồ Chí Minh. Tr.537.

[12] Hội Khai trí Tiến đức, (1931), Việt Nam tự điển, HANOI Imprimerie Trung-Bac Tan-Van. Mặc Lâm xuất bản. tr. 626.

[13] Xem Nguyễn Vinh Phúc.2009.Sự hiện diện của văn hiến Thăng Long. www.tapchinhavan.vn

[14] Xem Đỗ Trọng Huề. 1998. Văn Hóa Và Văn Chương, Đặc San Gió Việt.Calgary, Canada.

[15] Kim-Định 1979. Hồn Nước với Lễ Gia Tiên. USA. tr.303.

[16] Văn hóa文化 là cách nói tắt của cụm văn chương giáo hóa: tức là dùng văn chương dạy dỗ, để cảm hóa và biến đổi đời sống tinh thần cũng như đời sống vật chất của một người hay một cộng đồng xã hội. Từ điển của Hội Khai trí Tiến đức ghi: “văn hóa: sự giáo dục do văn học đã thấm thía vào trí não người ta” [tr.626] Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh ghi: “văn hóa: văn vật và giáo hóa, dùng văn tự mà giáo hóa cho người” [tr.537]. “Lín lao thay v¨n ho¸ ph« bµy lan to¶, cao ngót thay mét phen ®¹i chÊn Nho phong.” [Bµi ký ®Ò danh TiÕn sÜ khoa QuÝ Mïi niªn hiÖu Quang ThuËn n¨m thø 4 (1463) kh¾c n¨m Hång §øc thø 15 (1484) do §µo Cö so¹n]

[17] Tạm thời có thể phân suất nghĩa từ nguyên của từ văn minh 文明như sau nghĩa thứ nhất là rực rỡ. Cái đức của nó cương kiện và văn minh, ứng với trời thì mùa vận hành, cho nên đứng đầu và hanh thông (Kinh dịch, quẻ Đại hữu). 2. Tt. Văn vẻ và sáng rực rỡ (dùng cho đạo đức, Nho), Vua Thuấn uyên thâm và văn minh (Tuấn triết văn minh) (Kinh Thư). 3. Tt. Trạng thái có giáo hóa, có đạo đức, có lễ nghi, có điển tắc. Thánh Tông Thuần Hoàng Đế sáng lập pháp chế, mở ra muôn đời văn minh (ĐVSKTT) Họ Đinh vốn dòng họ đàn anh, giữ được đất xa, có lòng hâm mộ phong thói văn minh, thường tỏ ý muốn phụ thuộc với Trung Quốc. (KĐVSTGCM) Phong tục văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy.(ĐVSKTT) Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh ghi: “cái tia của đạo đức phát hiện ra ở nơi chính trị, pháp luật, học thuật, điển chương,…” [tr.537].

[18] Văn vật 文物 1. dt. Những dấu ấn về vật chất thể hiện văn hiến của một triều đại. Thái tổ Hoàng đế ta được nhà Chu nhường ngôi, thanh danh, văn vật, biến đổi trở lại như xưa. (An Nam chí lược)// Vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. (ĐVSKTT) 2. Dt. Các di vật cổ có giá trị về lịch sử và nghệ thuật. Hà Nội nghìn năm văn vật. KTTD chú văn vật nghĩa như văn hiến. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh ghi: “những sản vật của văn hóa như lễ nhạc, chế độ” [tr.539]

[19] Nguyễn Vinh Phúc. Bdd.

[20] Nguyễn Ngọc San.. 2003. Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

Nguyễn Tài Cẩn. 2001. Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt. Trong “Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa”. Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội. Tr.401-411.

[21]Tứ thư dại toàn四書大全. Luận ngữ tập chú đại toàn論語集註大全(quyển 3 卷三). Bát dật đệ tam八佾第三. tr.14b.

[22] Lĩnh Nam: trỏ toàn bộ vùng đất từ phía Nam dãy Ngũ Lĩnh trở lại, gồm phần đất thuộc Quảng Đông, Quảng Tây và nước ta. Với người Việt, từ Lĩnh Nam cũng được dùng để trỏ lãnh thổ quốc gia của nước mình. Đại Nam quốc sử diễn ca có câu: Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.

[23] Hồ Vị胡渭.( 乾隆四十三年Kiền Long tứ thập tam niên). Vũ cống đồi chỉ (hai mươi quyển)禹貢錐指二十巻.

[24] Từ hải. tr.1860.

[25] Sĩ Nhiếp 士燮 (137-226) tự là Ngạn Tín, người đất Quảng Tín, quận Thương Ngô, là Thái thú Giao Chỉ từ năm 187 đến năm 226 (cuối thời Đông Hán, đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc). Sĩ Nhiếp được đánh giá cao nhất bởi có công trong việc duy trì tình trạng hòa bình yên ổn ở Giao Chỉ trong suốt giai đoạn nội chiến Tam Quốc hết sức phức tạp tại Trung Quốc kéo dài hơn nửa thế kỷ. Chính tích đó giúp Sĩ Nhiếp gần như trở thành một vị vua tự trị của quận Giao Châu, thoát hẳn ra khỏi ảnh hưởng và mệnh lệnh của nhà Hán. Điều đó thể hiện qua lá thư của Viên Huy, vốn là quan nhà Hán bấy giờ đang ở Giao Châu, gửi cho Thượng thư lệnh nhà Hán là Tuân Úc năm Đinh Hợi, Kiến An năm thứ 12 (207) đời Hán. Lá thư có đoạn: "Giao Châu Sĩ phủ quân đã học vấn sâu rộng lại thông hiểu chính trị, trong thời buổi đại loạn, giữ vẹn được một quận hơn hai mươi năm, bờ cõi không xảy ra việc gì, dân không mất nghiệp, những bọn khách xa đến trú chân đều được nhờ ơn, dẫu Đậu Dung giữ đất Hà Tây cũng không hơn được. Khi việc quan có chút nhàn rỗi thì chăm xem các sách thư, truyện. Phàm những chỗ biên chép không rõ ràng trong sách Xuân Thu Tả Thị truyện, (tôi) đem hỏi, đều được ông giảng giải cho những chỗ nghi ngờ, đều có kiến giải của bậc thầy, ý tứ rõ ràng, chặt chẽ. Lại như sách Thượng thư, cả cổ văn và kim văn, những ý nghĩa to lớn, ông đều hiểu biết tường tận, đầy đủ."

Ông được coi là một vị quan cai trị có tài và được giới Nho học phong kiến Việt Nam sau này suy tôn là một trong những nhân vật mở đường cho Nho giáo ở Việt Nam. Nhiều nơi hiện còn thờ ông.

[26] Đào Duy Anh.1989. Nhớ nghĩ chiều hôm (Hồi ký). Nxb. Trẻ. tr. 216-218. Nhân đây xin gửi lời cảm ơn Ts. Nguyễn Xuân Diện đã chỉ dẫn nguồn tư liệu này.

[27] (1).áo và mũ. Thời cổ kẻ sĩ đội mũ trên đầu, nhân thế dùng để trỏ trang phục của lớp người này. (2).chuyên chỉ lễ phục. (3).thay chỉ cho các bậc sĩ đại phu. (4), chỉ văn minh lễ giáo.

từ điển Từ nguyên dẫn câu trong sách luận ngữ: “quân tử chính kỳ y quan” (người quân tử chỉnh tề mũ áo”, chua là, sau trỏ nơi hoàng đế nghe việc chính sự. [tr.1528]《ZDIC.NET 汉 典 网》

[28] Nguyễn Trãi. An Nam Vũ Cống安 南 禹 貢(q.6). Ngô Ngọ Phong 吳 午 峰, Nguyễn Thư Hiên 阮 舒 軒, Nguyễn Hi Tư 阮 希 思viết tiểu chú và lời bình; Lí Tử Tấn 李 子 晉 thông luận, Nguyễn Thiên Túng 阮 天 縱 tập chú. Trong Ức trai di tập (7.q). Phúc Khê tàng bản. Ký hiệu. VHv.1772/2-3. tr.30a-30b. Bản dịch tham khảo theo Phan Duy Tiếp và Hà Văn Tấn (hiệu đính, chú thích) trong Nguyễn Trãi Toàn tập tân biên (T2). Nxb. Văn học & TT Nghiên cứu Quốc học. H. tr.481-482.

Xem thêm Nguyễn Thanh Tùng. 2010. Về lai lịch bài thơ Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục vẫn được xem là của Hồ Quý Ly. Trong “Thông báo Hán Nôm học năm 2009”. Nxb. Thế giới. Hà Nội. tr.1014-1027.

[29] Tức nhà Nguyên.

[30] Xem chú trên. Sđd.

[31] Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ), q.7, tr.28a.

[32] “Tức Lễ và Nhạc, là các phạm trù chính trị và luân lý của Nho gia. Lễ là do điển chương, chế độ, lễ nghi từ thời Tây Chu trở đi phát triển thành. Thuyết văn: “Lễ tức là Lý vậy. Lễ dùng để thờ thần cầu phúc” Như vậy, Lễ lúc ban đầu là để chỉ việc thờ thần, sau mới mở rộng ra Lễ nghi. Sau này, Lễ dần dần tách khỏi Nghi và có ý nghĩa chính trị “trị quốc an bang”. Nhạc là âm nhạc. Thuyết văn: “Nhạc là tên gọi chung của ngũ thanh, Bát âm”. Trịnh Huyền chú thích Lễ Ký- Nhạc Ký: “Bát âm cùng nổi lên một cách hài hoà thì gọi là nhạc. Lễ nhạc gọi gộp thì chỉ chung hình thái ý thức xã hội và quy phạm đạo đức, chế độ đẳng cấp toôg pháp của xã hội nô lệ, xã hội phong kiến. Tác dụng xã hội của nó là “quản lý quốc gia, ổn định xã tắc, giữ gìn trật tự trong nhân dân, làm lợi cho việc nối dõi về sau. (kinh quốc gia, định xã tắc, tự nhân dân, lợi hậu tự).” [Lao Tử- Thịnh Lê (chủ biên).2001. Từ điển Nho- Phật- Đạo. Nxb.Văn học. Hà Nội. tr.728]

[33] Chỉ cuốn sách gốc từ thời Trần, tác giả khuyết danh, mà Trần Thế Pháp đã chép được và đề Tựa năm Nhâm Tý hiệu Hồng Đức 23 (1492) tức bài Cổ thuyết tựa dẫn, trích ở phần sau sách Lĩnh Nam chích quái

[34] “Nguyễn Kiều (1695-1752 hiệu Hạo Hiên, người xã Phú Xá huyện Từ Liêm (nay thuộc xã Phú Thượng huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội). Ông là chồng của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, 21 tuổi đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi Vĩnh Thịnh 11 (1715) đời Lê Dụ Tông, làm quan Tả thị lang bộ Binh và được cử đi sứ sang nhà Thanh. Ông là tác giả của 4 bài văn bia tiến sĩ các khoa 1667, 1683, 1697, 1713).” [Theo Trịnh Khắc Mạnh.2006. văn bia đề danh tiến sĩ Việt Nam. Nxb Giáo dục. H]

[35] Trịnh Khắc Mạnh.2006.sđd.

[36] Từ Hải. tr.1851.

[37] Trong nguyên văn chữ đồ là một danh từ. Theo Hán ngữ đại tự điển, chữ đồ này mang nghĩa là pháp độ [Q thượng, tr.276], đây cũng là nguyên từ của các chữ cơ đồ, hồng đồ.

[38] Quốc triều Đình đối sách văn國 朝 庭 對 策 文, VHv.318/1 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

[39] Quốc triều Đình đối sách văn 國 朝 庭 對 策 文, ký hiệu VHv.318/2 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

[40] Xem thêm cách phân suất từ nguyên của Liam Kelley.2003. Vietnam as a ‘Domain of Manifest Civility’ (Văn hiến chi bang). Journal of Southest Asian Studies, Vol.34, No. 1, pp 63-76.

[41] Đào Duy Anh. Sdd. tr.276.

[42] Đào Duy Anh. Sdd. tr.158.